
Trong thế bị bất ngờ, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã phối hợp với các đơn vị của Bộ chiến đấu phản kích ngăn chặn địch, giải tỏa đồn Xa Mát, đuổi địch ở khu vực Bàu Đá (đưa 200 dân ra khỏi vòng vây của địch), Tà Nông, Cây Me, Long Thuận, Bến Trại, cầu Thúc Múc, Long Khánh và Xa Mát, Bảy Bàu.
Ngày 3-10-1977, Đảng ủy Quân khu ra Nghị quyết 06/NQ-77, xác định: “Trên cơ sở quán triệt đường lối quốc tế của Đảng, các lực lượng vũ trang Quân khu kiên quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, không dung thứ bất cứ xâm phạm nào của bọn phản động Campuchia vào lãnh thổ nước ta…”. Để đuổi địch ra xã khu vực biên giới, từ ngày 23-10-1977, Bộ Tổng Tham mưu mở chiến dịch phản công trên toàn tuyến biên giới nhằm đánh trả, trừng trị địch có mức độ sang đất Campuchia. Sư đoàn 5 tham gia chiến dịch trên hướng Xa Mát, Chàng Riệc; Trung đoàn 6 phản công địch trên hướng liên tỉnh lộ 13; bộ đội địa phương Trảng Bàng, Gò Dầu phối hợp phản công địch và phát triển chiến đấu đến ngã ba Giếng Xây. Sau khi đánh đuổi địch sang bên kia biên giới, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Quân khu lui về xây dựng trận địa phòng thủ.
Lợi dụng thời cơ Quân đội Việt Nam lui về phòng thủ biên giới, từ giữa tháng 11-1977, Pol Pot tập trung 5 sư đoàn chủ lực cùng 5 trung đoàn địa phương mở đợt tiến công mới nhằm đánh chiếm khu vực dọc sông Vàm Cỏ Đông, Bến Sỏi và thị xã Tây Ninh. Chúng chiếm khu vực nam - bắc liên tỉnh lộ 13, thọc sâu vào đất Tây Ninh 7 km, đốt hàng trăm nhà dân và cắt hàng chục mẫu lúa. Lực lượng vũ trang Quân khu chiến đấu giành dật với địch từng tấc đất, giành lại quyền kiểm soát tại các khu vực cao điểm 79, 62, làng 24, Tà Nốt, Tà Đạt, Phước Tân và dọc bờ sông Vàm Cỏ.
Từ tháng 12-1977, trên tuyến biên giới đối diện địa bàn Quân khu 7, địch tăng cường lực lượng từ 5 sư đoàn lên 9 sư đoàn, rồi 11 sư đoàn (trong tổng số 17 sư đoàn chủ lực và 10 trung đoàn địa phương). Chúng tập trung lực lượng (8 sư đoàn chủ lực và 8 trung đoàn địa phương) trên khu vực biên giới Tây Ninh, âm mưu đánh chiếm khu vực đông - tây đường 22 và nam - bắc liên tỉnh lộ 13, uy hiếp trực tiếp thị xã Tây Ninh. Trước tình hình trên, Quân khu 7 tiến hành đợt sinh hoạt chính trị, xây dựng quyết tâm chiến đấu trong toàn lực lượng vũ trang Quân khu, củng cố lại Sư đoàn 5, thành lập Sư đoàn 2 và Chiến đoàn đặc nhiệm (gồm Trung đoàn 205, Trung đoàn 1 Gia Định). Tỉnh Long An thành lập Trung đoàn 159 (Vàm Cỏ) và Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 cơ động của tỉnh. Tỉnh Tây Ninh củng cố Trung đoàn 6, Trung đoàn 201, Trung đoàn 2 Biên phòng, Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 16. Tỉnh Sông Bé thành lập Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn Phú Lợi. Từ ngày 15-12-1977, lực lượng vũ trang Quân khu phối hợp tiến công trên toàn tuyến biên giới, tiếp đó mở chiến dịch phản công quét địch ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Sau đó, trong hai đêm 4 và 5-1-1978, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Quân khu chủ động rút về nước.
Lực lượng vũ trang Việt Nam rút tới đâu, Pol Pot đưa quân bám sát, chiếm lại vị trí cũ đến đó. Chúng tăng thêm lực lượng tập trung lên 13 sư đoàn ra toàn tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia. Ngày 13-1-1978, Ban Thường vụ Trung ương đảng Pol Pot ra chỉ thị về đường lối tiến hành chiến tranh lâu dài chống Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế. Lấy Tây Ninh làm hướng chủ yếu, chúng đánh phá liên tục bằng lực lượng vừa và nhỏ (có nơi, lấn sâu vào đất Việt Nam từ 5 đến 7 km), dùng pháo 130 mm bắn vào các thị trấn, thị xã và những nơi đông dân thuộc các tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé. Từ ngày 16-1 đến ngày 18-2-1978, chúng tổ chức 398 đợt hoạt động trong đó có 66 cuộc hành quân lấn chiếm, 165 lần bắn pháo các loại, làm cháy 97 nhà và 139 người chết; lấn chiếm lộ Ủi, khu vực bắc Kà Tum, Bảy Bầu, Tà Nốt, Tà Đạt và đồn biên phòng Tống Lê Chân.
Để tỏ rõ thiện chí giải quyết chiến tranh biên giới Campuchia – Việt Nam bằng con đường đàm phán, ngày 5-2-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố lập trường 3 điểm về việc chấm dứt ngay mọi hoạt động quân sự thù địch ở vùng biên giới và ký kết hiệp ước hữu nghị có giám sát quốc tế. Tuy nhiên tập đoàn Pol Pot- Iêng Xary tiếp tục đẩy mạnh hoạt động vu cáo Việt Nam và tiến hành xâm lấn biên giới nước ta. Từ 25-2 đến 25-3-1978, trên tuyến biên giới địa bàn Quân khu 7, chúng tiến hành 38 vụ hoạt động quân sự, làm chết và bị thương 31 người, cháy 20 nhà dân. Đến cuối tháng 3-1978, địch tập trung 5 sư đoàn chủ lực cùng 5 trung đoàn địa phương ở khu vực Lò Gò (tây đường 22) và đường 7 (ngang); tổ chức từng tiểu đoàn hoặc trung đoàn luân phiên đánh liên tục cả ngày đêm. Ngày 16-3, chúng bất ngờ tập kích hai thôn Thiên Hương và Thiên Phước ở huyện Bù Đốp (tỉnh Sông Bé), giết hại gần 300 dân thường, phần lớn là người già và trẻ em.
Trước diễn biến mới của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tập trung lực lượng lên biên giới, xây dựng Trung đoàn 117 Đặc công và lực lượng trinh sát các trung đoàn, sư đoàn để đẩy mạnh tác chiến bằng lối đánh đặc công. Tỉnh Đồng Nai củng cố 2 tiểu đoàn cơ động (445 và 440). Tỉnh Sông Bé củng cố lại Tiểu đoàn Phú Lợi, Tiểu đoàn 208 và lực lượng dân quân du kích các xã biên giới. Cùng trong thời gian này, tỉnh Long An từ Quân khu 9 về trực thuộc Quân khu 7. Đồng thời, Tư lệnh Quân khu 7 ra chỉ thị về xây dựng hệ thống phòng thủ biên giới bằng công sự, đào hào đắp luỹ, trồng tre ở những nơi xung yếu, rào và cò cây, bố trí chông, mìn trên các hướng trọng điểm kết hợp xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vùng biên. Sau thời gian phòng ngự bị động, Quân khu 7 giành lại thế chủ động, tổ chức phản công trên nhiều hướng, đẩy địch sang bên kia biên giới, chiếm lại một số địa bàn tạo thế có lợi để phát triển tiến công và triển khai xây dựng tuyến phòng thủ biên giới từ xa. Mặt khác, các đơn vị vũ trang Quân khu còn tổ chức đón, di chuyển, bố trí nơi ăn ở sản xuất cho người dân Campuchia chạy sang Việt Nam lánh nạn, đưa các đội trinh sát đặc nhiệm luồn sâu tìm kiếm, bắt liên lạc với các nhóm quân đội Khmer Đỏ ly khai.
Nhìn lại giai đoạn 9.1977 - 5.1978, mặc dù bị bất ngờ, lúng túng trong xác định kẻ thù và phương thức tác chiến, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã khẩn trương khắc phục khó khan bỡ ngỡ ban đầu, vừa tổ chức, điều chỉnh lực lượng, vừa chiến đấu, và qua chiến đấu dần định hình cách đánh thích hợp, từng bước giành lại thế chủ động trên chiến trường; đồng thời xây dựng hệ thống phòng thủ và thế trận chiến tranh nhân dân trên toàn tuyến biên giới. Đó là những ngày tháng chiến đấu quyết liệt giành giật bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc, những tháng ngày như lời bài ca của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Xa nông trường ra biên giới/ Có đôi khi đi không trở lại/ Nhưnng trong lòng nghe tiếng nói/ Những gian nan sẽ đo lòng người!
(Còn nữa)