
Trung tướng Triệu Xuân Hòa
Năm 1979, đồng chí nhận nhiệm vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 47, Phòng Quân báo, Mặt trận 479. Từ tháng 5-1980, đồng chí là học viên Trường Quân chính Quân khu 7. Từ tháng 12-1980, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47, Phó Bí thư Tiểu đoàn ủy, Đảng ủy viên Phòng Quân báo, Đảng ủy viên Bộ Tham mưu, Mặt trận 479. Qua 5 năm chiến đấu ở Campuchia, đồng chí trực tiếp chỉ huy đơn vị 36 lần luồn sâu vào vùng địch kiểm soát để trinh sát, nắm tình hình chính xác phục vụ trực tiếp cho cấp trên chỉ đạo tác chiến. Trong quá trình chỉ huy trinh sát, có 36 lần đơn vị đồng chí trực tiếp gặp địch, 7 lần nổ súng, diệt 30 tên, thu 11 khẩu súng; đơn vị an toàn.
Tháng 2-1982, đồng chí được bổ nhiệm làm Trưởng ban Trinh sát, Phòng Quân báo, Mặt trận 479. Nhiệm vụ của ban là theo dõi, làm tham mưu chỉ đạo trinh sát bộ đội giúp các đơn vị trên địa bàn do Mặt trận phụ trách (cả ta và bạn), tổ chức huấn luyện, nắm địch phục vụ chiến đấu. Đây là hướng chủ yếu của chiến trường Campuchia, lực lượng địch chủ yếu trên địa bàn này, lực lượng ta trong biên chế và tăng cường có 2 đoàn quân sự, 8 sư đoàn bộ binh. Tháng 8-1982, đồng chí được cử đi học tại Học viện Lục quân. Từ những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, công tác, ngày 25-1-1983, đồng chí được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cuối năm 1983, đồng chí được bổ nhiệm làm Phó Trưởng phòng Quân báo Mặt trận 479. Ngoài chức trách Phó Trưởng phòng chỉ đạo lực lượng quân báo trinh sát nắm địch trên tuyến biên giới, sau Đại hội Đảng bộ Phòng Quân báo, đồng chí được giao kiêm công tác nội bộ và Bí thư Đảng ủy Phòng Quân báo.
Cuối năm 1986, đồng chí nhận nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 6, Đoàn 7705, Mặt trận 479. Nhận nhiệm vụ, đồng chí cùng Đảng ủy - Ban Chỉ huy Trung đoàn tiến hành củng cố sắp xếp đội ngũ cán bộ; chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác quản lý; tổ chức huấn luyện đơn vị có sức cơ động cao, thường xuyên chủ động bám nắm địch và luôn sẵn sàng chiến đấu. Sau một thời gian ngắn, trung đoàn có chuyển biến mạnh mẽ, từ chưa mạnh đến đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất thời kỳ 1987-1988 của Mặt trận 479.
Từ tháng 4 đến tháng 12-1988, đồng chí là Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Sư đoàn bộ binh 5, Mặt trận 479. Thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao, đồng chí chỉ huy đợt rút quân lần thứ 8 của Quân tình nguyện Việt Nam (gồm Sư đoàn bộ binh 5 và một số lực lượng của Mặt trận 479) hoàn thành nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia trở về nước an toàn.
Tháng 1-1989, đồng chí được cử đi học ngoại ngữ tại Học viện Kỹ thuật quân sự, sau đó là Học viện Quân sự Cao cấp tại Liên Xô. Trước biến cố tại Liên Xô, đồng chí về nước tiếp tục học tập tại Học viện Quân sự Cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) từ năm 1990 đến tháng 7-1992.
Tốt nghiệp ra trường, tháng 8-1992, đồng chí được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 5, Quân khu 7. Thời điểm này, tình hình quốc tế và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình xôviết ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ hoàn toàn. Tình hình Campuchia có những thay đổi bất lợi. Ở trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục dùng mọi thủ đoạn chống phá quyết liệt cách mạng trên địa bàn Quân khu và một số điểm nóng trên cả nước. Đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Chỉ huy Sư đoàn chỉ đạo cơ quan chính trị củng cố tổ chức Đảng các cấp, đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, lập trường, quan điểm giai cấp, xây dựng quyết tâm chiến đấu cho bộ đội; cơ quan tham mưu điều chỉnh biên chế, lực lượng phù hợp và đảm bảo cho nhiệm vụ sẵn sàng chiế n đấu, đồng thời tổ chức huấn luyện theo kế hoạch, thực hành diễn tập chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn có một phần thực binh, duy trì kỷ luật, xây dựng đơn vị theo hướng chính quy; cơ quan hậu cần - kỹ thuật tập trung xây dựng các kho vũ khí và bảo đảm đủ tiện nghi tối thiểu doanh trại các đơn vị, cải thiện đời sống bộ đội, giải quyết công tác hậu phương quân đội. Đến năm 1995, sư đoàn có những bước phát triển đáng kể trên con đường tiến lên chính quy, tinh nhuệ.
Tháng 11-1995, đồng chí được điều động làm Phó Tham mưu trưởng Quân khu 7, phụ trách huấn luyện, diễn tập và đối ngoại. Tháng 4-1996, đồng chí được cử đi đào tạo chương trình A tại Học viện Chính trị - Quân sự. Tháng 12-1996, khóa học kết thúc, trở về Bộ Tham mưu Quân khu, đồng chí cùng với Đảng ủy - Bộ Tham mưu chỉ đạo công tác nắm địch, xây dựng hệ thống cơ sở quân báo nhân dân, củng cố hệ thống điệp báo và các tổ cơ sở, triển khai lực lượng trinh sát bảo vệ trong ngày lễ, tết, ngày cao điểm, phát hiện xử lý các hoạt động phá hoại gây rối an ninh quốc gia. Giữa năm 1998, Phòng Biên phòng được thành lập, đồng chí và Đảng ủy - Bộ Tham mưu nghiên cứu, đề xuất với Bộ Tư lệnh Quân khu về việc xác định chức năng, nhiệm vụ của Phòng Biên phòng, mối quan hệ với Bộ Tư lệnh Biên phòng và các cơ quan, địa phương; việc huấn luyện, sử dụng lực lượng làm nhiệm vụ phòng thủ và tác chiến; chỉ đạo xây dựng một số công trình phòng thủ biên giới, bờ biển và nội địa nhằm tăng thêm tính vững chắc của khu vực phòng thủ địa phương, xây dựng chốt dân quân thường trực trong cụm dân cư biên giới, hình thành thế trận liên hoàn các đồn, trạm, chốt biên phòng, bảo vệ an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia.
Trong công tác huấn luyện, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Tham mưu đã tham mưu giúp Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chỉ đạo củng cố Trường Quân sự Quân khu và hệ thống Trường Quân sự tỉnh, thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo cho các đối tượng đúng mục tiêu, sát thực tế, rèn luyện toàn diện trên cơ sở hoàn chỉnh chương trình cải tiến nội dung, đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường rèn luyện tác phong và huấn luyện thực hành, xây dựng nhà trường chính quy, mẫu mực.
Trong công tác đối ngoại, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu, đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Tham mưu Quân khu triển khai hoạt động giao lưu và giúp đỡ bạn cả về vật chất, tài chính, kinh nghiệm huấn luyện, xây dựng lực lượng. Mối quan hệ giữa hai bên dần được tăng cường trở lại. Đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Tham mưu Quân khu chỉ đạo Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh làm tham mưu cho địa phương và tổ chức triển khai các nội dung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, công tác quân sự - quốc phòng; xây dựng cơ quan quân sự và đội ngũ cán bộ quân sự địa phương, lực lượng dân quân tự vệ; xây dựng đồn, trạm biên phòng, chốt dân quân trong cụm điểm tựa của khu vực phòng thủ. Hoạt động trao đổi đoàn, ngoại giao nhân dân, ngoại giao biên phòng, giao lưu văn hóa, thể thao quân sự - quốc phòng được đưa vào chương trình thực hiện. Các hoạt động nói trên của Quân khu đã góp phần củng cố, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nước láng giềng Campuchia.
Từ năm 2002, đồng chí được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân khu 7. Trong thời gian này, đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu nâng cao chất lượng tổng hợp, thực hiện quy hoạch xây dựng lực lượng, xây dựng nền nếp chính quy. Năm 2006, đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo các cơ quan, đơn vị triển khai đồng bộ các mặt công tác nhằm xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh toàn diện theo tinh thần Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 20-7-2005 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam; triển khai thực hiện Chỉ thị số 245/CT-BTL về “7 không”1, Chỉ thị số 235-CT/ĐUQS về xây dựng tổ chức Đảng và đảng viên, trọng tâm là xây dựng chi bộ “4 tốt”, đảng viên “5 tốt”, Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 17-11-2006 của Bộ Chính trị về thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đặc biệt sau việc thực hiện Chỉ thị số 41/CT-TM của Tổng Tham mưu trưởng, lực lượng vũ trang Quân khu có chuyển biến mạnh mẽ, nhất là trong khâu quản lý, rèn luyện kỷ luật, xây dựng chính quy và cải cách hành chính quân sự.
Tháng 5-2007, đồng chí được bầu trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII, sau đó, đồng chí được chỉ định kiêm nhiệm Tham mưu trưởng Quân khu. Năm 2009, đồng chí được bổ nhiệm Tư lệnh Quân khu 7 và được thăng quân hàm Trung tướng. Trong thời gian này, đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu vững mạnh toàn diện, gắn với tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh.
Ngày 23-3-2010, đồng chí đã ký ban hành Chỉ thị số 333/CT-BTL về “Tăng cường các biện pháp quản lý, duy trì nền nếp, chế độ chính quy trong ngày, tuần, quản lý trang bị kỹ thuật ở các cơ quan, đơn vị”. Trong đó, tập trung đột phá nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật và cải cách hành chính quân sự. Qua triển khai thực hiện, tất cả cơ quan, đơn vị đều duy trì nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật và đổi mới tác phong công tác; duy trì chặt chẽ, thống nhất chế độ trong ngày, trong tuần; lễ tiết tác phong chính quy và ý thức chấp hành kỷ luật của bộ đội chuyển biến tốt, chấm dứt vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, hạn chế đến mức thấp nhất vi phạm kỷ luật theo Quyết định số 2530/QĐ-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về kỷ luật thông thường.
1. Không đào, bỏ ngũ, vắng mặt trái phép; Không vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, hạn chế vi phạm kỷ luật thông thường; Không uống rượu, bia ở đơn vị và khi về địa phương; Không để xảy ra tai nạn giao thông; Không để xảy ra cháy nổ, mất an toàn trong huấn luyện và mất vũ khí, trang bị; Không phân biệt đối với chiến sĩ; Vận động không hút thuốc lá.
Tháng 9-2011, đồng chí Triệu Xuân Hòa có quyết định bổ nhiệm làm Phó Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nguyên, phụ trách công tác quốc phòng - an ninh và công tác đối ngoại. Tuy nhiên, do phải chờ Bộ Quốc phòng làm quy hoạch và đề nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định bổ nhiệm Tư lệnh Quân khu 7 thay thế; nên đến đầu năm 2012 đồng chí mới chính thức nhận trách nhiệm Phó Trưởng ban. Từ năm 2014 đồng chí được giao phụ trách đối ngoại, xây dựng hệ thống chính trị. Phát huy phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ”, đồng chí tích cực nghiên cứu, nắm chắc tình hình cơ quan, qua đó có nhiều đề xuất kiến nghị, kiện toàn lại bộ máy tổ chức cơ quan, đưa cơ quan hoạt động ngày một hiệu quả hơn.
Đồng chí đã chỉ đạo cơ quan nghiên cứu làm tham mưu ban hành “Quy chế phối hợp trao đổi thông tin về bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng Tây Nguyên và phụ cận”. Đây là lần đầu tiên có một quy chế rất cụ thể, quy định một số nguyên tắc, nội dung, trách nhiệm trong hoạt động phối hợp giữa Ban Chỉ đạo Tây Nguyên với cấp ủy, chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên, các tỉnh giáp Tây Nguyên và các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đứng chân trên địa bàn Tây Nguyên. Từ đó, định kỳ và đột xuất, các đơn vị kịp thời báo cáo tình hình ngoại biên, nội biên cho Ban Chỉ đạo Tây Nguyên. Cán bộ các vụ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, hoạt động hiệu quả, được các già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo và nhân dân yêu mến.
Năm 2017, đồng chí nghỉ hưu theo chế độ. Ghi nhận công lao đóng góp của đồng chí Triệu Xuân Hòa, Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng đồng chí danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và 10 huân, huy chương; Nhà nước Cộng hòa nhân dân Campuchia và Chính phủ Hoàng gia Campuchia tặng thưởng 12 huân, huy chương các loại.