Quân khu 7 Online

Đến với bài thơ hay

Thứ tư, 20/04/2016, 14:17 (GMT+7)
12122 lượt xem

Đò Lèn - Khắc khoải về tuổi thơ

 

Đò Lèn

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.

 

 

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

 

 

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán cháo Đồng Giao thập thững những đêm hàn.

 

 

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực

giữa bà tôi và tiên phật thánh thần

cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm.

 

 

Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất

đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền

Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!

 

 

Tôi đi lính lâu không về quê ngoại

dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

khi tôi biết thương bà thì đã muộn

bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

Nguyễn Duy

 

   Nguyễn Duy - nhà thơ xứ Thanh - một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca thời kì chống Mĩ cứu nước. Người đọc biết đến Nguyễn Duy qua nhiều thi phẩm nổi tiếng như: Tre xanh, Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông...và không thể không kể đến bài thơ Đò Lèn. Nhà thơ sáng tác bài Đò Lèn năm 1982, trong một dịp trở về quê hương để sống lại với những kỉ niệm buồn vui thời thơ ấu. Có thể coi bài thơ này tiêu biểu cho phong cách sáng tác và vẻ đẹp của thơ Nguyễn Duy.

 

   Bài thơ là tâm tư, nỗi niềm của tác giả khi nhớ về tuổi thơ hồn nhiên, khờ dại, về nỗi vất vả mưu sinh của bà ngoại để nuôi mình, về sự ân hận muộn màng khi biết thương bà thì bà đã qua đời. Bài thơ mang cái tên rất bình dị, mộc mạc: Đò Lèn. Đó là tên quê hương tác giả, cũng giống như trăm nghìn cái tên làng xóm quen thuộc khác ở nông thôn Việt Nam như thôn Đông, thôn Đoài, xóm Thượng, xóm Hạ… Nhưng khi tác giả đưa vào thơ thì nó đã trở thành một trời nhớ thương da diết khôn nguôi về những năm tháng tuổi nhỏ sống bên bà ngoại kính yêu, xen lẫn nỗi ân hận, xót xa…Mạch cảm xúc liên kết hiện tại với quá khứ. Đứa cháu bé nhỏ ngày xưa nay đã là người lính, sau bao trận chiến vào sống ra chết và những sóng gió cuộc đời, trong giây phút hồi tưởng, hình ảnh quê hương và kỉ niệm tuổi thơ sống dậy. Trong bài thơ, “cái tôi” thuở nhỏ được tác giả tái hiện chân thực và sống động. Tác giả không giấu giếm mà thật thà kể rằng thời thơ ấu mình cũng nghịch ngợm, dại khờ giống như bao đứa trẻ khác ở vùng quê nghèo. Đó là thái độ thẳng thắn, tôn trọng sự thật, không thi vị hóa quá khứ của mình. Chính vì thế, tác giả đã đem lại cho người đọc cảm tình pha chút ngạc nhiên, thú vị. Thời thơ bé hiện lên rõ ràng như một cuốn phim quay chậm trong kí ức nhà thơ.
 
   Trên cái nền là quá khứ tuổi thơ, hình ảnh người bà hiện lên cùng khung cảnh thân thiết của quê hương. Nhà thơ cảm thông, thương mến bà mình và cũng là cảm thông, thương mến quê hương. Các địa danh: cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, đồng Quan, Ba Trại, Quán Chảo, Đồng Giao, ga Lèn hiện lên rõ mồn một trong kí ức nhà thơ bởi nơi nào cũng in dấu kỉ niệm, cũng mang bóng dáng người bà. Sau những đoạn thơ hồi tưởng với âm điệu bâng khuâng, da diết, bây giờ lời kể và cảm xúc của nhà thơ đã là của một người lính lâu không về quê ngoại. Bắt đầu là lời hối lỗi chân thành về sự hồn nhiên đến vô tâm của đứa cháu thơ dại ngày xưa: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Bài thơ này có cặp hình tượng sóng đôi là: bà và tôi (cháu). Một đằng, bà lầm lũi tần tảo sớm hôm ; một đằng, tôi (cháu) sống bên bà nhưng dửng dưng, vô tình, chẳng biết gì về sự vất vả, cực nhọc của bà với cháu, dành cho cháu. Sự tương phản đó đã ẩn chứa một lời hối lỗi. Lúc ấy, cậu bé hồn nhiên, ngây thơ không hề biết là mình có lỗi. Có lẽ cậu bé sẽ cứ chông chênh mãi giữa hai bờ hư – thực nếu không có một biến cố kinh hoàng làm thay đổi tất cả. Sau những trận bom Mỹ tàn phá quê hương, cậu bé chợt hiểu ra một điều: Hóa ra, những thế lực siêu nhiên mà cậu vẫn hoài vọng, say mê chỉ là hư ảo, trước một sự thực là bà ngoại của cậu vẫn vất vả, long đong. Phải rất lâu sau, trước nhiều biến cố dữ dội của chiến tranh, cậu bé năm nào khi đã trở thành người lính dạn dày khói lửa mới hiểu trọn vẹn về bà ngoại của mình. Vì thế, khi đối diện với quá khứ trong tâm tưởng, cậu bé năm xưa – nhà thơ bây giờ chỉ còn biết day dứt, xót xa, ân hận: “khi tôi biết thương bà thì đã muộn /bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.’ Nhà thơ kín đáo nhắc đến một sự thật: phần lớn con người ta chỉ thực sự biết yêu thương người thân khi cơ hội đền đáp ơn nghĩa đã không còn. Đấy cũng là bi kịch tinh thần thường thấy xưa nay. Điều này có ý nghĩa thức tỉnh bất ngờ. Câu chuyện bà cháu trong bài thơ là bài học vô giá đối với những ai có thái độ dửng dưng khi thụ hưởng những thành quả lao động do người khác đem lại, chỉ biết nhận mà không biết cho, không quan tâm đến người thân yêu của mình.
 
   Bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy hướng tới cái đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm của con người, nói đến những điều thật giản dị nhưng lại có giá trị vĩnh hằng. Cảm xúc chân thành và những suy tư sâu sắc của nhà thơ được diễn tả bằng một hình thức nghệ thuật vừa giàu tính dân gian vừa phảng phất phong vị thơ cổ điển phương Đông. Cái hay nhất của bài thơ Đò Lèn chính là hiện thực cuộc đời đã làm rung động sâu xa trái tim người đọc.
                                              Anh Đức
Từ khóa:

Bình luận

Bài viết tương tự:

"Từ bưng biền em tỏa sáng giữa Thủ đô” - Khúc tráng ca về nữ du kích miền Nam

"Từ bưng biền em tỏa sáng giữa Thủ đô” - Khúc tráng ca về nữ du kích miền Nam

20:52 19/08/2025

(QK7 Online) - Đọc bài thơ Từ bưng biền em tỏa sáng giữa Thủ đô của Trần Thái Học, ta như được gặp lại một tượng đài sống động - người nữ du kích miền Nam, biểu tượng của khí phách anh hùng và vẻ đẹp bất khuất của dân tộc. Ngay từ những câu thơ đầu, hình ảnh “súng khoác trên vai, tâm thế sẵn sàng” đã khắc họa tư thế kiêu hùng của người con gái trong khói lửa chiến tranh. Ở đó, vẻ đẹp nữ tính hòa cùng ánh thép can trường, tạo nên sức cuốn hút vừa dịu dàng vừa rực lửa.

Bài ca phụ nữ Việt Nam

Bài ca phụ nữ Việt Nam

10:21 03/03/2023

(QK7 Online) - Bài hát: “Bài ca phụ nữ Việt Nam”, của Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý (1925-2019) đã khắc họa rõ nét hình tượng người phụ nữ Việt Nam qua mọi thời đại. Từ Bà Trưng, Bà Triệu cho đến ngày nay trên mọi mặt trận, từ các mẹ, các chị anh dũng, kiên cường trong chiến tranh trước đây đến các mẹ, các chị hăng say trong xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay, luôn xứng danh với 8 chữ vàng mà Bác Hồ dành tặng vào dịp ngày 8/3/1965 phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Đưa cơm cho mẹ đi cày: Ca khúc thiếu nhi đi cùng năm tháng

Đưa cơm cho mẹ đi cày: Ca khúc thiếu nhi đi cùng năm tháng

08:59 25/05/2022

(QK7 Online) - Trong cuộc đời sáng tác âm nhạc của mình, nhạc sĩ Hàn Ngọc Bích (1940 - 2015), có những ca khúc gắn bó với tuổi thơ của nhiều thế hệ, mà tiêu biểu trong số đó phải kể đến “Đưa cơm cho mẹ đi cày”. Ca khúc được ông sáng tác năm 1966, khi đất nước còn đang chia cắt hai miền, miền Bắc là hậu phương lớn cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam đánh giặc giải phóng quê hương.

TIN XEM NHIỀU:

TIN MỚI:

DƯ LUẬN QUAN TÂM:

Quân khu 7 Online

Theo dõi chúng tôi tại:

Cơ quan chủ quản: Bộ Tư lệnh Quân khu 7

Giấy phép số 486/GP-BTTTT ngày 28/07/2021

© Báo Quân khu 7 điện tử giữ bản quyền nội dung trên website này.

Tòa soạn: 17/12 Hồ Văn Huê, phường Đức Nhuận, TP. Hồ Chí Minh

Tổng Biên tập: Đại tá Nguyễn Văn Bắc

Email: [email protected] | [email protected] | 1