Những trận đánh tiêu biểu của LLVT Quân khu 7: Trận Bộ Tổng tham mưu ngụy I
Tốc độ:1x
(QK7 Online) – Bộ Tổng tham mưu ngụy (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7), giáp ranh quận Tân Bình và quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn - Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) do Cụm biệt động 679, Phân khu 6 (Sài Gòn - Gia Định) tiến công Quân ngụy Sài Gòn và quân Mỹ (31/1/1968).
Bộ Tổng tham mưu ngụy, còn gọi là căn cứ Trần Hưng Đạo, là cơ quan đầu não cao nhất của quân ngụy Sài Gòn, được xây dựng bằng nhiều nhà kiên cố. Đặc biệt là tòa nhà Sở chỉ huy nằm trên trục đường từ cổng chính vào 500m, nằm trên mảnh đất có tổng diện tích khoảng 1km.
Xung quanh căn cứ này là tường cao được bao bọc kiên cố, có nhiều lô cốt để lính gác. Căn cứ có 5 cổng, theo thứ tự (1, 2, 3, 4, 5), trước các cổng địch bố trí hàng rào cự mã, bùng nhùng. Lực lượng bảo vệ căn cứ có hàng trăm tên, có xe tăng - thiết giáp, trang bị hỏa lực mạnh, thường xuyên canh gác, tuần tiễu 24/24 giờ.
Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy Phân khu 6, Cụm Biệt động 679 cùng các đơn vị Tiểu đoàn 267 và Tiểu đoàn Gò Môn phối hợp tiến công đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu. Nhiệm vụ của Cụm Biệt động 679 là ém sẵn trong thành phố, áp sát mục tiêu, tập kích đúng giờ “G”, đánh chiếm, khống chế mục tiêu và giữ cho được 1 giờ, bảo đảm cho các tiểu đoàn mũi nhọn (Tiểu đoàn 267 và Tiểu đoàn Gò Môn) và lực lượng thanh niên, học sinh, sinh viên đến tiếp ứng, tăng cường sức đề kháng tại chỗ, đánh địch phản kích, chiếm giữ mục tiêu và kết hợp với mũi nổi dậy của quần chúng nhân dân, làm chủ tình hình.
Lực lượng tiến công Bộ Tổng tham mưu ngụy, Đội 6 có 13 đồng chí, do đồng chí Ba Tâm, Đội trưởng, Năm Đức - Đội phó. Vũ khí gồm 10 súng AK, 1 colt 12mm, 50 lựu đạn, 150kg TNT. Khi bước vào chiến đấu sẽ bổ sung 2 khẩu B40 (số vũ khí trang bị này lấy ở một căn nhà cơ sở ở xóm Gà, đường Phan Văn Trị, quận Bình Thạnh do vợ chồng Trần Văn Miêng xây dựng và quản lý). Phương tiện vận chuyển có 1 xe vận tải nhẹ do đồng chí Sáu lái và 2 xe gắn máy.
Do mục tiêu cổng sân bay Tân Sơn Nhất (cổng Phi Long) Đội 9 phụ trách bị trục trặc (do một số khẩu súng bị hư hỏng, rỉ sét, súng hư báng vì để lâu ngày ở kho nhà cơ sở) nên quyết định Đội 9 và Đội 6 cùng đánh mục tiêu Bộ Tổng tham mưu ngụy. Đội 9 do đồng chí Ba Phong, Đội trưởng, Tám Bền, Đội phó, vũ khí nhận từ hai kho ở nhà cơ sở đường Trương Minh Ký (đường Lê Văn Sĩ, TPHCM ngày nay) và đường Nguyễn Huỳnh Đức (nay là đường Huỳnh Văn Bánh, TPHCM) gồm: 8 súng AK, 2 súng colt 12mm, 50 lựu đạn, 150kg TNT, 4 khẩu B40 và một số thuốc nổ. Phương tiện vận chuyển có 1 xe tải nhẹ do anh Năm Mập lái và 3 xe gắn máy.
Tổng số cán bộ, chiến sĩ biệt động của Đội 6 và Đội 9 (còn gọi là Cụm Biệt động 679) tham gia trận đánh Bộ Tổng tham mưu ngụy gồm 27 đồng chí, Ban chỉ huy gồm đồng chí Đỗ Tấn Phong, Ba Tâm, Tám Bền và Năm Đức.
2 giờ ngày 31/1/1968, sau khi nghe tiếng đạn cối bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất phát lệnh tiến công, Cụm Biệt động 679 cơ động trên hai xe tải nhẹ, hình thành 2 mũi tấn công vào cổng số 4 (bên cạnh khách sạn Tân Sơn Nhất ngày nay). Do địch đã được báo động từ trước, đã tăng cường lực lượng, canh gác, bố phòng cẩn mật, nên khi ta nổ súng địch chống trả rất quyết liệt. Hỏa lực địch trên lô cốt và lực lượng cơ động đến tiếp ứng bắn mãnh liệt vào đội hình ta, cả hai mũi đều không vào được bên trong căn cứ. Các chiến sĩ ta phải trụ lại dọc bờ tường rào và các ngôi nhà kế cận lợi dụng địa hình, địa vật để chiến đấu. Đến 6 giờ, 7 giờ sáng, địch huy động lực lượng bộ binh và xe thiết giáp có máy bay trực thăng vũ trang yểm trợ liên tục phản kích hòng đánh lui bộ đội ta ra khỏi trận địa. Các chiến sĩ Đội 6, Đội 9 anh dũng đánh trả, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, ta có đồng chí thương vong.
Đến chiều 31/1/1968 địch tiến công dữ dội từ nhiều hướng, chia cắt đội hình ta, các tổ mất liên lạc với chỉ huy, thêm một số đồng chí hy sinh và bị thương, sức chiến đấu của các đội yếu dần. Một bộ phận phải lui ra, rời khỏi trận địa. Bộ phận còn lại được nhân dân tiếp tế thức ăn, nước uống, đã kiên cường bám các nhà trống đánh trả quyết liệt. Địch huy động lực lượng, tăng cường lùng sục, vây ép ta. Ta và địch giao chiến ác liệt ở khu vực đường Trương Quốc Dung, đường Võ Tánh (nay là đường Hoàng Văn Thụ).
Một số đồng chí còn lại chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, rồi bị địch bắt lúc 9 giờ ngày mồng 3 Tết.
Kết quả: Ta diệt và làm bị thương gần 100 tên địch, bắn cháy 2 xe bọc thép, phá hủy 1 súng đại liên, giữ được trận địa được gần hai ngày đêm. Ta hy sinh 10 đồng chí, 4 đồng chí bị bắt, 3 đồng chí bị mất tích.
Trận tiến công vào Bộ Tổng tham mưu ngụy đã gây tiếng vang lớn ở trong nước và thế giới. Cùng với lực lượng mũi nhọn là Tiểu đoàn 2 Gò Môn, ta đã gây rất nhiều khó khăn cho địch ở mục tiêu trọng yếu này. Cán bộ, chiến sĩ biệt động với quân số ít hơn địch rất nhiều lần, lại phải chiến đấu bằng chiến thuật của bộ binh, nhưng với tinh thần “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, diệt được nhiều địch, bắn cháy xe bọc thép của chúng.
Trận đánh chưa thành công do ta nhận định chưa đúng tình hình địch, tình hình ta, địa hình khu vực tác chiến... do đó xây dựng quyết tâm chiến đấu thiếu chính xác; khi thực hành tiến công mục tiêu yếu tố bí mật không còn, lực lượng biệt động có hạn, trang bị vũ khí cho một trận đánh tiến công địch trong công sự vững chắc không thể đáp ứng yêu cầu đánh chiếm và giữ mục tiêu chờ lực lượng tiếp ứng; hiệp đồng chiến đấu giữa lực lượng biệt động và tiểu đoàn mũi nhọn cũng như với lực lượng thanh niên, học sinh, sinh viên đến hỗ trợ không thực hiện được đúng thời gian, đầy đủ lực lượng... nên bộ đội ta bị tổn thất nặng, không chiếm được mục tiêu là Bộ Tổng tham mưu ngụy theo dự kiến.
Trường Giang, Nguyệt Phương, Phú Thành
Trích sách “400 Trận đánh của LLVT Quân khu 7 (1945 - 1989)”