
Tại kì họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ ngày 28/10 đến ngày 9/11/1946, lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam thực hiện quyền lập hiến. Từ ngày 1/11/1946, Quốc hội bắt đầu thảo luận về Dự án Hiến pháp, đại biểu của các nhóm đảng phái đã lần lượt phát biểu, nêu những ưu điểm, đóng góp một số vấn đề cụ thể và đi đến thống nhất nội dung dự án. Ngày 9/11/1946, Quốc hội biểu quyết thông qua Hiến pháp năm 1946 với sự nhất trí của 240/242 đại biểu dự họp, chiếm 99,17%. Quốc hội tiếp tục xác định nhiệm vụ của Ban Thường trực Quốc hội và giao cho Ban Thường trực Quốc hội phối hợp với Chính phủ quy định việc thi hành Hiến pháp.
Hiến pháp năm 1946 gồm có: Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Chương I quy định về chính thể; Chương II quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân; Chương III quy định về Nghị viện nhân dân; Chương IV quy định về Chính phủ; Chương V quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính; Chương VI quy định về cơ quan tư pháp và Chương VII quy định về sửa đổi Hiến pháp.
Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946 thể hiện trong 3 nguyên tắc cơ bản, đó là: Đoàn kết toàn dân; bảo đảm các quyền lợi dân chủ; thực hiện chính quyền nhân dân mạnh mẽ và sáng suốt. Điều 1 của Hiến pháp quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam: Lần đầu tiên một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập ở nước ta, với hình thức chính thể Cộng hòa.
Quyền dân chủ của nhân dân được ghi rõ trong Điều 10: “Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cử tri; đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam ghi nhận phụ nữ ngang bằng với nam giới trong mọi phương diện và mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định Nghị viện Nhân dân (Quốc hội) là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do công dân Việt Nam bầu ra và có nhiệm vụ giải quyết mọi vấn đề chung của toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ kí với nước ngoài.
Đánh giá về ý nghĩa của việc ban hành bản Hiến pháp đầu tiên lịch sử của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà... là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông... Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do... Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”. Hiến pháp năm 1946 đánh dấu thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xác lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện…