Báo Quân khu 7 trích toàn văn bài phát biểu tham luận của Trung tướng Nguyễn Trường Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quân khu 7 tại Hội thảo Khoa học cấp Quốc gia: Đại thắng mùa Xuân 1975 với kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

Trung tướng Nguyễn Trường Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quân khu 7 phát biểu tham luận tại Hội thảo.
Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ ra đời từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cùng với quá trình phát triển của sự nghiệp kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và được nhân dân hết lòng nuôi dưỡng, giúp đỡ, chở che, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ từng bước trưởng thành, gắn liền với các phong trào cách mạng của nhân dân, với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương và lãnh đạo các địa phương tham dự Hội thảo.
Cùng với quá trình phát triển của cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ được tổ chức hết sức linh hoạt, sáng tạo, lúc tập trung, khi phân tán. Bộ đội luôn bám trụ địa bàn, dựa vào nhân dân để xây dựng, chiến đấu, phù hợp với hoạt động ở một chiến trường “lấy chiến tranh du kích là chính”, với ý chí “thà chết chớ lui”, sẵn sàng chịu đựng gian khổ hy sinh, kiên cường kháng chiến.

Thủ trưởng Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam và Bộ Quốc phòng tham dự Hội thảo.

Thiếu tướng Trần Vinh Ngọc, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 7 tham dự hội thảo.
Từ năm 1961 đến năm 1965, trên cơ sở lực lượng phát triển, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã vận dụng linh hoạt phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng”; sáng tạo nhiều hình thức đánh giặc độc đáo, đưa chiến tranh nhân dân phát triển lên trình độ cao, từng bước làm phá sản “quốc sách ấp chiến lược”, giải phóng từng mảng nông thôn rộng lớn, đồng thời đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị dẫn đến sự khủng hoảng của chế độ tay sai của Mỹ. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, lực lượng vũ trang miền Đông đã mở Chiến dịch Bình Giã, với qui mô cấp trung đoàn, giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.
Khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã chủ động, linh hoạt, sáng tạo, tìm ra muôn vàn cách đánh Mỹ hiệu quả. Lực lượng đặc công, biệt động ra đời trong kháng chiến chống Pháp đã phát huy sức mạnh, đạt hiệu suất chiến đấu cao; hệ thống “vành đai diệt Mỹ”- một hình thức độc độc đáo, sáng tạo của chiến tranh nhân dân được hình thành, tạo thế bao vây, tiến công địch ngay tại căn cứ xuất phát tiến công của chúng. Bộ đội chủ lực Quân khu 7 phát triển lên nhiều trung đoàn; Quân khu Sài Gòn - Gia Định có 5 tiểu đoàn chủ lực và đặc khu Rừng Sác được thành lập ngay sát Sài Gòn.

Đoàn Chủ tịch điều hành Hội thảo.


Các đại biểu tướng lĩnh cao cấp của Quân đội, Công an và các nhà khoa học tham dự Hội thảo.
Sau Hiệp định Paris năm 1973, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã quán triệt tư tưởng tiến công, kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định. Nhờ đó, ta vẫn giữ được quyền chủ động tiến công trong mùa khô năm 1974-1975, giải phóng tỉnh Phước Long, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Từ cuối năm 1974, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976” và chủ trương của Trung ương Cục, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, Cực Nam Trung Bộ được giao nhiệm vụ phối hợp với bộ đội chủ lực Miền đẩy mạnh tác chiến giải phóng đường 14 - Phước Long nối liền với Tây Ninh tạo bàn đạp bao vây Sài Gòn từ hướng Bắc; giải phóng đường 20 Tánh Linh - Võ Đắc, chia cắt Quân khu 2 với Quân khu 3 của địch, cô lập Sài Gòn từ hướng Đông; giải phóng Dầu Tiếng - Truông Mít, uy hiếp đường 22, tạo bàn đạp bao vây Sài Gòn từ hướng Tây Bắc; giải phóng khu vực Bến Cầu, phân tuyến Vàm Cỏ Đông - Vàm Cỏ Tây, mở hành lang xuống đồng bằng, tạo bàn đạp chia cắt Sài Gòn từ phía Tây; xây dựng, hoàn chỉnh các căn cứ địa ở miền Đông, mở lõm, mở vùng, tạo bàn đạp đứng chân và tiến công cho lực lượng đặc công, biệt động và các đơn vị bộ binh.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Miền và Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, Cực Nam Trung Bộ đã tiến hành các chiến dịch tiêu diệt địch ở vòng ngoài, phá âm mưu phòng thủ từ xa, phá thế co cụm và phòng ngự của địch, hình thành thế bao vây, chia cắt Sài Gòn, đồng thời hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho lực lượng chủ lực của Miền và của Trung ương tổng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của chế độ tay sai.
Ngày 26 - 4 - 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Cùng với các quân đoàn chủ lực và nhân dân, trên các hướng, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đồng loạt tiến công các mục tiêu theo kế hoạch. Sư đoàn 6 (Quân đoàn 4) đánh chiếm các mục tiêu trên trục quốc lộ 1, thị xã Biên Hoà. Sư đoàn 5 (Đoàn 232) tiến công xuống Tân An, Thủ Thừa, chặn cắt đường số 4. Các trung đoàn Gia Định phối hợp đánh chiếm các mục tiêu Tân Sơn Nhất, Bà Quẹo, Quán Tre, Xa lộ Sài Gòn và cửa sông Nhà Bè. Các đơn vị đặc công, biệt động đánh chiếm và chốt giữ cầu Bông, cầu Sáng, cầu Rạch Chiếc… và các trục đường giao thông chính, tạo bàn đạp và dẫn đường cho các binh đoàn tiến vào nội đô Sài Gòn. Lực lượng vũ trang các quận, huyện hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy, tiêu diệt lực lượng chống cự, thành lập và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đến ngày 1 tháng 5 năm 1975, Côn Đảo - địa phương cuối cùng của miền Đông Nam Bộ được giải phóng hoàn toàn.
Kính thưa các đồng chí, quí vị đại biểu!
Đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với lực lượng vũ trang Quân khu 7. Tiếp nối hành trình đi tới Đại thắng mùa Xuân 1975, phát huy truyền thống “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng”, lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày nay đang nỗ lực thực hiện “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” của Trung ương Đảng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, chủ động sáng tạo trong thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 7 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh, sẵn sàng ứng phó, xử lý thắng lợi mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.