Tốc độ:
1x
(QK7 Online) - Đồng thời với việc giải quyết những tồn đọng về hoàn trả tiền đất trưng dụng để xây dựng và mở rộng sân bay, chính quyền Sài Gòn triển khai các biện pháp nhằm bảo vệ và duy trì có hiệu quả cảng hàng không Tân Sơn Nhất. Từ cuối năm 1964, chế độ Sài Gòn “đang trên con đường thất bại” (lời của đại sứ Mỹ - tướng Maxwell Taylor). Sau khi đắc cử tổng thống, Johnson tuyên bố “Mỹ phải có mặt ở Nam Việt Nam” và xúc tiến việc chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Để đáp ứng nhu cầu đẩy cao cường độ cuộc chiến tranh xâm lược, các sân bay ở miền Nam được mở rộng, tu bổ và đầu tư thiết bị hiện đại. Sân bay Tân Sơn Nhất và các sân bay dân dụng khác được quân sự hóa.
Không giống một số sân bay dân dụng khác được quân sự hóa hoàn toàn như Nha Trang, Đà Nẵng…, sân bay Tân Sơn Nhất vì “có yếu tố quốc tế” nên không quân sự hóa lĩnh vực hoạt động hàng không dân sự. Ngày 29-7-1965, Hội nghị liên tịch Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông công chánh Sài gòn quyết định: “1-Tất cả khu vực dân sự và khu vực chung thuộc phi trường Tân Sơn Nhứt được quy định là khu vực quân sự. Khu vực quân sự này đặt dưới quyền chỉ huy của 1 giới chức quân sự, có 1 phụ tá dân sự do Bộ Giao thông công chánh đề cử. 2-Việc điều hành hàng không vẫn do cơ quan dân sự tiếp tục điều khiển và chịu trách nhiệm với giới chức chỉ huy khu vực quân sự. Bộ Tư lệnh không quân sẽ tăng cường một số chuyên viên bên cạnh các chuyên viên dân sự, để khi hữu sự các chuyên viên này sẽ tiếp tay điều hành hàng không. 3-Vấn đề xây cất sẽ do giới chức chỉ huy khu vực quân sự định đoạt chiếu theo các nhu cầu quân sự cũng như dân sự và sau khi đã hội ý với phụ tá dân sự. 4-Các cơ quan dân sự trung ương hiện đồn trú trong khu vực quân sự chỉ trực thuộc giới chức chỉ huy khu vực quân sự về phương diện an ninh và phòng thủ”.
Trong xu hướng quân sự hóa hoạt động sân bay, tháng 9-1965, Chính quyền Sài Gòn tiến hành “Cải tổ tổ chức phi cảng Sài Gòn - Tân Sơn Nhất” nhằm tăng cường các nhiệm vụ: “1-Khai thác các cơ sở và sự vụ không vận trong phạm vi phi cảng nhằm mục đích làm thuận tiện sự bay và đáp của phi thuyền quân - dân sự. 2- Khai thác và mở mang các cơ sở thương mại hay quân sự có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến ngành không tải trong phạm vi phi cảng. 3-Cung cấp mọi tiện nghi cho người sử dụng phi cảng. 4-Thâu hồi lợi tức trong việc khai thác các cơ sở nói trên và trong việc cung cấp các tiện nghi và dịch vụ hàng không hay ngoại hàng không. 5-Duy trì trật tự chung”.
Đồng thời với việc cải tổ sân bay Tân Sơn Nhất, Chính quyền Sài Gòn cải tổ lại Nha Căn cứ hàng không nhằm tăng cường các chức năng: “1-Sáng tạo và chỉnh đốn đại thể căn cứ hàng không các hạng. 2-Thực hiện các loại công tác về bất động sản ở trong và ngoài phi trường. 3-Thiết lập cai quản và bảo tồn công sản hàng không. 4-Phối hợp với Nha Hàng không dân sự trong việc hợp thức hóa và mở các phi trường công cho giao thông hàng không công cộng, thừa nhận các phi trường của tư nhân, quản lý và khai thác thương mại các không cảng mở cho sự giao thông hàng không công cộng”. Theo đó, Nha Căn cứ hàng không có 3 sở nghiệp vụ (Quản trị, Kỹ thuật, Dụng cụ); 3 khu vực sân bay (khu phi trường Tân Sơn Nhất, khu các phi trường miền Trung, khu các phi trường miền Nam); và khu công tác đặc biệt Sài Gòn (Phòng hành chánh, Ty kỹ thuật, Ty tu bổ phi trường Tân Sơn Nhất).
Tiến trình quân sự hóa sân bay Tân Sơn Nhất tăng nhanh cùng với xu thế đẩy cao cường độ hai cuộc phản công mùa khô (1965-1966, 1966-1967) trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Không kể các đơn vị bảo vệ và phục vụ, sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 không quân, Bộ Tư lệnh quân dù đều đóng bản doanh tại sân bay Tân Sơn Nhất. Số sĩ quan không quân quân lực Việt Nam cộng hòa làm việc trong khu vực sân bay ngày càng đông. Năm 1967, Chính quyền Sài Gòn phải tiếp tục mua thêm đất để nới rộng sân bay Tân Sơn Nhất, xây dựng thêm một đường băng, nâng số đường hạ cất cánh lên đường song hành, dài 3.000m. Nha Hàng không dân sự thiết lập thêm một số đường bay mới, trang bị mới hoặc nâng cấp thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm kiểm soát không lưu đường trường Sài Gòn, như: thiết lập hệ thống Telephone Key System (TKS), đặt đài VHF Extended Range, nới rộng nhà máy và đặt thêm máy phát điện tăng cường điện năng cho máy radar kiểm soát không lưu. Hàng năm, Trung tâm này kiểm soát tới 150.000 lượt máy bay, liên lạc với Trung tâm kiểm soát không lưu của các nước lân cận như Hongkong, Bangkok, Phnompenh, Manila. Trung tâm truyền tin trong nước hoạt động với tần suất gần 2 triệu điện văn trao đổi hàng năm bằng phương tiện viễn ký, morse. Ngoài ra, Nha Căn cứ hàng không cũng dự định “cho thiết lập một đường vào phi trường thứ hai song song với đường hiện hữu để giải tỏa bớt áp lực lưu thông trên đường này hiện rất cao”.
Tính đến năm 1968, trên toàn Nam Việt Nam đã có một hệ thống cơ sở hạ tầng cảng hàng không tương đối hoàn chỉnh với 500 sân bay lớn nhỏ, trong đó 50 sân bay có kiêm thêm chức năng dân sự, còn lại là sân bay quân sự phục vụ cho nhu cầu mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và công cuộc kiểm soát, bình định của chính quyền Sài Gòn. Ngoài Trung tâm kiểm soát không lưu đường trường Sài Gòn đặt tại sân bay Tân Sơn Nhất, còn có 31 đài kiểm soát không lưu đặt tại 31 sân bay quân sự có máy bay dân sự sử dụng và 18 đài phù trợ không vận dân sự đặt rải rác trên các nẻo đường có máy bay bay qua, 20 đài do Bộ Quốc phòng chính quyền Sài Gòn thiết lập hoàn toàn phục vụ cho mục đích quân sự. Đồng thời với việc tăng cường cơ sở hạ tầng sân bay, chính quyền Sài Gòn còn đầu tư đào tạo nhân lực, tuyển chọn thanh niên gửi sang Mỹ học các ngành lái, sửa chữa máy bay và các ngành liên quan đến hoạt động hàng không, đặc biệt là hàng không quân sự. Trong tổng số 236 phi công năm 1968, có đến 70% phi công thuộc không lực Việt Nam Cộng hòa.
Riêng sân bay Tân Sơn Nhất, đến năm 1975 được mở rộng gần 2.000ha, trở thành một căn cứ quân sự hỗn hợp dùng chung cho hàng không dân dụng trong thế bố trí tam giác chiến lược Biên Hòa - Sài Gòn - Vũng Tàu, có sức chứa 400-500 máy bay với hệ thống ụ chìm, nổi, kho chứa bom đạn, xăng dầu, công sự chiến đấu phòng thủ. Tại đây, Bộ Tư lệnh không quân chỉ huy lực lượng tham gia các cuộc phản công chiến lược mùa khô, tổ chức các phi vụ trinh sát, ném bom rải thảm, đánh phá căn cứ địa và khu vực nghi là nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo kháng chiến, nơi trú quân của chủ lực Quân Giải phóng,Nếu trong năm 1958, sân bay chỉ có 30.000 phi vụ cất cánh và hạ cánh, thì đến năm 1966 đã tăng đến 50.000 phi vụ.
(Còn nữa)
PGS - TS Hồ Sơn Đài