
và thực tiễn trong thời đại ngày nay”.
Bằng thế giới quan duy vật và sử dụng phương pháp biện chứng để nghiên cứu lịch sử nhân loại, trong TNĐCS, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách khoa học về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội loài người; quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản; vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCVS; mục đích của Ðảng Cộng sản (ĐCS), mối quan hệ giữa ĐCS với GCVS cũng như chiến lược, sách lược của ĐCS trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) để tiến tới xây dựng một xã hội không còn giai cấp, không còn nhà nước mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Theo V.I.Lênin, TNĐCS là tác phẩm “trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để”.
TNĐCS đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản nhất của cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ðiều đặc biệt là, những nguyên lý này, như V.I.Lênin đã đánh giá, “tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có”.
Với việc phản ánh đúng quy luật phát triển của hiện thực, định hướng cho Ðảng của GCVS lãnh đạo đấu tranh theo quy luật đó để giải phóng con người, tác phẩm đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận, soi đường, dẫn lối cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên phạm vi toàn thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ðó là Công xã Pari năm 1871 - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, đã dẫn tới sự ra đời chính quyền của giai cấp công nhân; đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 - cuộc cách mạng đã mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, là thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô; là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ - Latinh và hệ thống XHCN thế giới ra đời; là sự phát triển không ngừng của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hòa bình trên thế giới.
Từ những thắng lợi to lớn của các cuộc cách mạng vô sản, của PTCS và CNQT đã minh chứng về những biến chuyển to lớn của thế giới diễn ra theo hướng mà TNĐCS đã dự báo. Những tư tưởng trong tác phẩm đã trở thành hiện thực sinh động trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng loài người; đã vạch ra con đường cách mạng vô sản, đưa hàng tỷ quần chúng lao động, hàng trăm quốc gia, dân tộc thoát khỏi thân phận bị áp bức, bóc lột, nô dịch, vươn tới địa vị làm chủ, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Qua đó, TNĐCS đã khẳng định được giá trị to lớn đối với sự phát triển của thế giới, sự tiến bộ của nhân loại. Song, cũng như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là một quá trình quanh co, phức tạp. Sự phát triển của cách mạng vô sản cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sau những thắng lợi to lớn và thành tựu vĩ đại, sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô và các nước Ðông Âu vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX là một tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ này, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do ĐCS ở Liên Xô và Ðông Âu khi xác lập mô hình chủ nghĩa xã hội và khi cải tổ, cải cách đã xa rời những nguyên lý cơ bản, chủ đạo của TNĐCS, của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất, đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội xơ cứng, giáo điều, chậm thay đổi trước những biến chuyển to lớn của thời cuộc. Sự sụp đổ này không dẫn đến “cái chết của chủ nghĩa cộng sản” như ảo tưởng của các lý thuyết gia tư sản. Những thành tựu to lớn trong công cuộc cải cách, đổi mới ở Trung Quốc, Việt Nam trong vài thập kỷ gần đây và sự vững vàng của Cuba trước sự bao vây cấm vận của Mỹ cùng với sự xuất hiện các trào lưu XHCN mới ở các châu lục và ở ngay trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa đã minh chứng giá trị lý luận, thực tiễn và sức sống bền vững của TNĐCS, của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong 90 năm qua, được soi sáng bởi tư tưởng của TNĐCS, của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Ðảng ta đã lãnh đạo Nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành được những thắng lợi to lớn, mang lại vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Có được những thành tựu đó là do trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng ta luôn luôn kiên định, trung thành và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có những nguyên lý nền tảng, những tư tưởng cơ bản và chủ đạo của TNĐCS, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước và xu thế thời đại. Hiện nay, trước xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng công tác xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đề ra. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, luôn khẳng định nhất quán về vị trí, vai trò và sứ mệnh của mình như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong TNĐCS. Bên cạnh đó, quán triệt sâu sắc quan điểm của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, tập trung nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của Đảng từ Trung ương đến cơ sở…, coi đây là yêu cầu xuyên suốt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo những nguyên lý, tư tưởng cơ bản, nền tảng trong TNĐCS, để ngày càng xứng đáng hơn với sự kỳ vọng của Tổ quốc và Nhân dân, khắc phục hiện tượng “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi,…”, Đảng ta phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, để ngang tầm nhiệm vụ. Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và khẳng định tính tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, toàn Đảng, trong đó có các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội ta phải không ngừng quán triệt và tích cực thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Quy định về những điều đảng viên không được làm; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên không đủ tư cách, vi phạm nghiêm trọng Điều lệ và kỷ luật Đảng…; xem đây là giải pháp hữu hiệu, đột phá trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, đủ sức lãnh đạo nước ta thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, ngày càng vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Khoa Lý Luận Mác – Lênin, Trường SQLQ2