Khi Quân khu 7 thành lập, tôi chưa ra đời. Và, 25 năm sau, tôi đã có mặt tại chiến trường miền Đông Nam bộ làm chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam, trên mảnh đất Nam bộ Thành đồng Tổ quốc. Kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Quân khu 7, ký ức trong tôi trào dâng với biết bao kỷ niệm vui buồn.
Nhà thơ Trần Thế Tuyền (bên phải) cùng đồng đội thăm lại chiến trường xưa
Hương rừng miền Đông
Có thể nói, rừng miền Đông Nam bộ (miền Đông) có hương vị riêng của nó. Đó là cảm giác mà thời gian trôi qua đã mấy chục năm, tôi chẳng thể nào nguôi ngoai được. Ai đã từng ở rừng miền Đông sẽ dễ dàng nhận ra hương vị ấy.
Tôi nhớ, sau khi đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng (đầu năm 1973), đơn vị chúng tôi hành quân về núi Bà Đen (Tây Ninh) xây dựng căn cơ, theo hướng chính quy, chuẩn bị cho chiến dịch mới. Mỗi buổi sáng, tôi có thói quen lang thang bên bờ suối hay đi dọc rừng, thả hồn mình theo sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Ngày ấy, rừng đang hồi sinh sau các đợt bom B.52, chất độc màu da cam, rải thảm. Hiếm hoi lắm, mới gặp khoảnh rừng nguyên sinh chưa bị tàn phá.
Tôi luồn sâu vào khu rừng ấy, mặc cho lời cảnh báo của đồng đội về thứ bom nhiệt đới của địch còn sót lại. Bỏ qua sự khắc nghiệt của chiến tranh, tôi tận hưởng khoảnh khắc yên tĩnh giữa hai trận đánh.
Hương rừng ngào ngạt bên tôi. Mùi trái cây mọng chín, mùi hoa rừng tỏa lan. Cả tiếng chim, tiếng suối reo, tiếng gió rì rào trên những vòm cây...làm cho bản hợp xướng rừng xanh thêm lung linh, huyền ảo.
Có phút giây yên tĩnh, thảnh thơi đó, chúng tôi không thể quên gương mặt đồng đội đã ngã xuống dọc rừng miền Đông, dọc biên giới Tây Nam, nơi có những cánh đồng Tháp Mười bát ngát. Sau này, khi kết thúc đợt “rèn binh luyện cán” ấy, chúng tôi trở lại chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, hương rừng miền Đông đã theo chúng tôi mãi.
Giữa năm 1974, lại một lần nữa, chúng tôi được giao tiêu diệt yếu khu Long Khốt - một cứ điểm quan trọng nằm sát biên giới Việt Nam- Campuchia thuộc tỉnh Long An bây giờ. Nói đến Long Khốt, những người lính Sư đoàn 5 nói chung và Trung đoàn 174 - đoàn Cao Bắc Lạng nói riêng không thể nào quên được. Tháng 6 năm 1972, sau khi tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ giải phóng Lộc Ninh, Sư đoàn 5 nhận lệnh hành quân bôn tập xuống đây. Dẫu khí thế chiến thắng của chiến dịch mang tên người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ vẫn còn hừng hực trong trái tim người lính, nhưng do “lạ nước, lạ cái”, các đơn vị tham gia giải phóng Long Khốt đã gặp khó khăn, tổn thất.
Dòng sông và những cánh đồng Long Khốt đẫm máu những người lính trẻ từ hậu phương mới bổ sung vào chiến trường. Đó là những chàng trai, những thầy và trò, những anh và em, cả cha và con quê ở Hải Dương, Nam Hà, Hà Nội, Thái Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phú...
Một đêm, từ hậu cứ tôi được giao cùng các chiến sĩ trinh sát, vận tải làm công tác tử sĩ. Những chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi, quân phục Tô Châu chưa bạc màu, mái tóc còn vương hương rừng miền Đông đã ngã vào lòng đất mẹ.
Những giây phút ấy cứ ám ảnh mãi cuộc đời cầm súng và cầm bút của tôi. Truyền cho tôi niềm cảm hứng để sau này hoàn thành tập trường ca mang tên “Phía sau Mặt trời”, trong đó có nhiều chương nói về mảnh đất khốc liệt và kiên cường - chiến trường Long Khốt.
Phía sau Mặt trời là khoảng tối
Bao bà mẹ mất con
Bao người vợ mất chồng
Bao tuổi xuân găm vào đá núi
Phía sau Mặt trời
Con đường đi tới
Tôi kể cùng em!
Những người lính mà “tuổi xuân găm vào đá núi” ấy, đã mang theo cả hương rừng miền Đông vào lòng đất Mẹ!
Câu hỏi đời người
Sau chiến tranh tôi khoác ba lô về làng, mẹ tôi đón từ đầu ngõ. Mẹ ôm lấy tôi, câu đầu tiên mẹ hỏi: Con về còn em con đâu? Tôi không biết trả lời sao! Em tôi đã nằm lại nơi những cánh rừng miền Đông hay ở nơi nào trên mảnh đất hình chữ S đau thương mà anh dũng này?
Câu hỏi của mẹ - câu hỏi đời người cứ theo mãi tôi, như một món nợ không bao giờ trả được. Để có ngày toàn thắng, thu non sông về một dải và để giữ yên từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, 70 năm nay và hơn thế nữa đã có hàng triệu người con ưu tú của đất nước như em trai tôi đã ngã xuống.
Những người còn sống sau chiến tranh và những người thừa hưởng cuộc sống yên bình hôm nay còn một món nợ với người đã khuất.
Vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta, quân đội ta, trong đó có LLVT Quân khu 7 lại bước ngay vào các cuộc chiến đấu mới. Súng đã rền vang trên biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Máu của những người lính Bộ đội Cụ Hồ lại tiếp tục đổ nơi Hoàng Sa, Trường Sa, những vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Cả trên đất bạn Lào và Campuchia nữa. Cuộc chiến kéo dài 10 năm và hơn thế, đã cướp đi tuổi thanh xuân và ước mơ của hàng vạn người con đất Việt. Vì tình hữu nghị đặc biệt, và vì “ cứu bạn cũng là tự cứu mình”, họ đã hiến thân mình cho Tổ quốc.
Những năm tháng sục sôi ấy, là người lính Quân khu 7, chúng tôi lại sát cánh cùng đồng đội trên những nẻo đường đánh giặc. Những Ka Tum, Hoa Lư, Thiện Ngôn, Sa Mát... những Kông Pông Chàm, Kông Pông Thơm, Siêm Riệp... đồng đội tôi lại hành quân và hàng vạn người ra đi không có ngày trở về.
Câu hỏi đời người của những bà mẹ Việt Nam với những đứa con ra đi thời chống Mỹ chưa nguôi ngoai, lại thêm những câu hỏi mới.
Đó cũng là món nợ thôi thúc những người còn sống phải làm gì đó để tri ân đồng đội. Các đội công tác đặc biệt của Quân khu 7 cũng như các đội tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của quân đội ta đã được thành lập. Họ âm thầm, bền bỉ, xuyên rừng, lội suối, sang cả đất bạn, trở lại chiến trường xưa tìm đồng đội. Năm tháng trôi qua, thân thể các anh chị đã tan biến thành đất đai của Tổ quốc. Di vật để lại chẳng là bao. Cái còn lại lớn nhất, có lẽ là ký ức, kỷ niệm, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ của những người con ưu tú đã hiến thân mình cho sự bình yên của đất nước.
Tùy bút của Trần Thế Tuyển