Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, tài thao lược và sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được biểu hiện cụ thể ở nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân độc đáo, sáng tạo; là biểu tượng cho khát vọng độc lập, tự do, quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do bằng ý chí, quyết tâm sắt đá và sức mạnh của cả dân tộc, với tinh thần: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Chiến thắng đó bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc chiến đấu mà lợi thế so sánh lực lượng, quyền chủ động ban đầu thuộc về thực dân Pháp.
Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947-chiến thắng đầu tiên ở cấp độ chiến dịch trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Một số bài học, kinh nghiệm đó là:
Một là, kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng-nhân tố quyết định thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947 cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nói chung và Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 nói riêng do nhiều nguyên nhân; trong đó, nhân tố giữ vai trò quyết định là đường lối kháng chiến đúng đắn, khoa học. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng và đánh giá đúng tình hình, tương quan lực lượng ta-địch, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã xây dựng được lực lượng chính trị hùng hậu, lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, rộng khắp, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; xây dựng hệ thống lãnh đạo, điều hành, chỉ huy kháng chiến và kiến quốc thống nhất, tập trung; phát huy được tính chủ động, tinh thần tự lực, tự cường để ứng phó với mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; đồng thời huy động được mọi nguồn lực để thực hiện đấu tranh trên các mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, tư tưởng, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp và cán bộ Bộ Tổng tham mưu báo cáo kế hoạch quân ta phản công quân Pháp trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông năm 1947. Ảnh tư liệu
Với đường lối kháng chiến đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của cả nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân độc đáo, sáng tạo, thực hiện càng đánh, càng mạnh, từng bước làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, đánh bại từng âm mưu, kế hoạch chiến lược của địch, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, mặc dù ưu thế về lực lượng, phương tiện chiến tranh nghiêng hẳn về phía thực dân Pháp, hơn nữa, địch bất ngờ mở cuộc tiến công quy mô lớn vào sâu hậu phương ta, nhưng do quán triệt, thực hiện triệt để đường lối kháng chiến của Đảng, quân và dân ta đã đoàn kết một lòng, chuẩn bị mọi mặt chu đáo, bình tĩnh tổ chức phối hợp đánh địch theo kế hoạch thống nhất. Với thế trận phòng ngự-phản công liên hoàn, vững chắc, quân và dân ta đã "bẻ gãy" từng cánh quân địch, tiến tới đánh bại cuộc tiến công của chúng vào cơ quan "đầu não" kháng chiến, làm phá sản chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến. Điều đó khẳng định Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 là sự kết tinh sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc; trong đó, đường lối kháng chiến đúng đắn và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định.
Phát huy bài học thành công đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, đòi hỏi chúng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; quán triệt và kiên quyết, kiên trì thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở thấu suốt tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc cũng như mục tiêu, phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh để giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản đang đặt ra đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc; phải chú trọng thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, "kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo"[1]; đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là xây dựng thế trận lòng dân, khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc; tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đây chính là thể hiện sự kiên định và cụ thể hóa đường lối lãnh đạo của Đảng ta trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Hai là, đánh giá đúng tình hình, kịp thời chỉ đạo linh hoạt, nhạy bén, xử lý có hiệu quả các tình huống.
Thực tiễn đấu tranh vũ trang cho thấy, quá trình vận động, phát triển của cuộc kháng chiến nói chung và tác chiến chiến dịch nói riêng, các tình huống diễn ra hết sức mau lẹ, khó lường, tác động trực tiếp tới cục diện chiến trường, chiến tranh. Vì vậy, việc nắm và đánh giá đúng tình hình, tạo cơ sở chỉ đạo chiến lược nhạy bén, linh hoạt để xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống phức tạp giữ vai trò quan trọng, quyết định đến thành bại của chiến dịch và cuộc chiến tranh. Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, ban đầu chúng ta có bất ngờ trước cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp bằng cả đường bộ, đường sông và đường không. Tuy nhiên, ngay sau đó, Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ đạo tổ chức nghiên cứu, nắm và đánh giá đúng tình hình địch, chỉ rõ điểm yếu, điểm mạnh của chúng và khả năng của ta. Trên cơ sở đó, kịp thời chỉ đạo các lực lượng chiến dịch chủ động làm tốt công tác chuẩn bị và thực hành tác chiến trên các hướng.
Nét nổi bật trong nghệ thuật chỉ đạo Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947 đó là chúng ta không tổ chức phòng ngự thụ động mà hình thành thế trận phòng thủ liên hoàn, vững chắc, đan xen để tổ chức phản công linh hoạt trên các hướng, đánh vào chỗ yếu, khoét sâu sơ hở của địch (khả năng cơ động, tiếp tế khó khăn ở địa bàn hiểm trở, xa căn cứ). Từ đó, từng bước giành quyền chủ động chiến dịch, đánh bại cuộc hành binh quy mô lớn của chúng. Đây là sự chỉ đạo đúng đắn, linh hoạt, thể hiện khả năng phân tích, phán đoán, đánh giá chính xác tình hình của Bộ Tổng chỉ huy, nhất là khả năng xoay chuyển tình thế, dồn địch đang ở thế chủ động lâm dần vào thế bị động và bị thất bại; đồng thời, là sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta về nghệ thuật dùng binh, kinh nghiệm không chỉ ở tầm chiến dịch mà cả về chiến lược, không chỉ trên chiến trường Việt Bắc mà trên phạm vi cả nước trong nhiều chiến dịch kế tiếp sau này.
Hiện nay, trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng, việc vận dụng, phát huy bài học trên càng có ý nghĩa quan trọng, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng cùng các nhiệm vụ, giải pháp về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên từng khu vực, địa bàn và cả nước. Trên nền tảng đó và căn cứ vào tình hình cụ thể, Quân đội nhân dân cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, chủ động nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, quyết sách đúng đắn, khoa học, xử lý thắng lợi các tình huống xảy ra trên biển, trên không và trong nội địa, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Về chỉ đạo chiến lược, cần chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; "tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước"[2]. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, chúng ta phải tích cực nghiên cứu, dự báo sát, đúng tình hình, có kế hoạch, phương án ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, ngăn chặn xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi; kiên trì giải quyết các bất đồng, tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Quá trình thực hiện, phải nắm vững đối tác, đối tượng; kiên quyết giữ vững nguyên tắc chiến lược nhưng linh hoạt, khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, quán triệt phương châm "thêm bạn, bớt thù", vừa hợp tác, vừa đấu tranh, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Trên cơ sở nắm vững nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng ở một nước thuộc địa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo những vấn đề có tính quy luật vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Để đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề là thực dân Pháp, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng thực lực cho cách mạng, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, rộng khắp và lâu dài; thực hiện đấu tranh trên tất cả các mặt trận (quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế và văn hóa, tư tưởng…), lấy đấu tranh vũ trang là hình thức chủ yếu, quyết định; kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng, nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước cho cuộc kháng chiến; quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công, giành quyền chủ động chiến lược và nghệ thuật quân sự đặc sắc "thế, lực, thời, mưu", lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, đánh đổ từng bộ phận địch và giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi quyết định cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, mặc dù thực dân Pháp huy động tới hơn 12.000 quân tinh nhuệ, với nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại (máy bay, pháo binh, ca nô, tàu, xuồng), bất ngờ tiến công trên nhiều hướng vào căn cứ "đầu não" của ta, nhưng chúng đã vấp phải sức mạnh tổng hợp cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện mà trước đó chúng chưa lường hết để có biện pháp ứng phó. Đặc biệt, khi chúng sử dụng hai gọng kìm, kết hợp với đổ bộ đường không vào trung tâm hòng khép chặt vòng vây, ta đã nhanh chóng chuyển hóa thế trận, kịp thời tổ chức lực lượng đánh địch trên các hướng và hình thành thế trận phản công. Đây là nét nổi bật về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân và là cơ sở, tiền đề để chúng ta thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân độc đáo trong suốt hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc, đó là: Kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến của các binh đoàn chủ lực, thực hành đánh địch rộng khắp ở mọi quy mô, với các hình thức tác chiến phong phú, linh hoạt; càng đánh càng mạnh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta cần tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân và vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, do nhân dân xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước. Tính chất của nền quốc phòng toàn dân là hòa bình, tự vệ, được xây dựng theo phương châm: Tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính, kết hợp với tranh thủ nguồn ngoại lực. Nội hàm của nền quốc phòng bao hàm tổng hợp nhiều yếu tố (chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, an ninh, đối ngoại, khoa học và công nghệ). Yêu cầu xây dựng nền quốc phòng là phải bảo đảm vững toàn diện, mạnh ở trọng điểm; trong đó, vấn đề cốt lõi nhất là xây dựng vững mạnh về tiềm lực và thế trận bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng, xử lý tốt các tình huống trong thời bình, ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của địch dưới mọi quy mô, hình thức.
Để đáp ứng yêu cầu đó, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Quá trình tổ chức thực hiện phải coi trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phải tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là xây dựng thế trận lòng dân, khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ngày càng vững chắc. Tăng cường đầu tư các nguồn lực cho quốc phòng; đẩy mạnh xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, tích cực, chủ động xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh, xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến và huấn luyện, diễn tập bảo đảm chất lượng để sẵn sàng xử lý hiệu quả các tình huống xảy ra; tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
Một trong những nhân tố làm nên Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 là chúng ta có lực lượng tại chỗ đủ mạnh. Trước đó, một số tiểu đoàn có kinh nghiệm chiến đấu ở các khu đã được điều lên Việt Bắc để cùng với Trung đoàn Thủ Đô hình thành những đơn vị chủ lực đầu tiên trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy. Đó cũng là kết quả của việc thực hiện chủ trương đưa các đại đội độc lập về hoạt động phân tán trên các địa bàn, nhằm xây dựng, dìu dắt lực lượng vũ trang địa phương và thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích ở cơ sở. Điều đó khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong chỉ đạo chiến lược về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng. Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 còn cho thấy, lần đầu tiên trong tác chiến chiến dịch, chúng ta đã tổ chức khá hoàn chỉnh lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Với mô hình tổ chức này, lực lượng vũ trang ba thứ quân đã không ngừng phát triển, lớn mạnh trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; tạo điều kiện cho Quân đội ta có đủ khả năng tổ chức các đợt hoạt động tác chiến, các chiến dịch tiến công trên từng hướng chiến lược, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch ở Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Kế thừa, phát huy bài học kinh nghiệm đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta cần đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, cần tiếp tục xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, chúng ta cần tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, bảo đảm cho quân đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án "Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới" gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 8-7-2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân; tổ chức thực hiện tốt Phong trào Thi đua Quyết thắng và các cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ".
Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 22-12-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2015; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 16-3-2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) về chiến lược trang bị cho Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2010, chúng ta cần tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án "Điều chỉnh tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2016-2021 và những năm tiếp theo" và "Chiến lược trang bị cho quân đội đến năm 2025". Chú trọng thực hiện tốt việc đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục-đào tạo theo Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 của Quân ủy Trung ương, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân trong tình hình mới; trong đó, chú trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, lấy thực hành là chính; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện chiến đấu theo các phương án với huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại và huấn luyện cứu hộ, cứu nạn, khắc phục, giảm nhẹ thiên tai, thảm họa… cho lực lượng thường trực, dự bị động viên và dân quân tự vệ. Tổ chức thực hiện tốt Chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong quân đội giai đoạn 2016-2020 gắn với công tác nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự; góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tập trung nâng cao chất lượng công tác hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, bảo đảm tốt cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng cả trên bình diện song phương và đa phương, bảo đảm sự hợp tác trên lĩnh vực này đi vào chiều sâu, thực chất, tạo thế đan xen lợi ích vững chắc; trước hết, cần chủ động tham gia xây dựng cơ chế hợp tác quốc phòng của ASEAN, các hoạt động của Năm APEC Việt Nam 2017 và hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; góp phần xây dựng lòng tin chiến lược, tăng cường đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các nước, giữ vững môi trường hòa bình để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống của dân tộc, về những ngày tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và hiện thực của nó trong bối cảnh mới của cách mạng. Trên cơ sở đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục chung sức, đồng lòng, phát huy tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng cùng những bài học kinh nghiệm từ chiến thắng lịch sử đó, nỗ lực phấn đấu, thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X trong thời kỳ mới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.311-312.