Tố Hữu - một nhà thơ lớn – cánh chim đầu đàn của nền văn học cách mạng Việt Nam được nhiều người biết đến với nhiều bài thơ hay viết về đề tài chiến tranh, cách mạng, về Đảng, về Bác Hồ... Nhưng một thú vị khác khi nhắc đến Tố Hữu người ta còn nhắc đến bài thơ Đợi anh về của K.Simonov (1917- 1979 - Nga) đã được nhà thơ Tố Hữu dịch cách đây gần 70 năm (năm 1947). Bài thơ đã trở nên thân thuộc với hàng triệu bạn đọc Việt Nam qua bản dịch của Tố Hữu. Nói như nhà thơ Hồng Thanh Quang trong một bài báo đã khẳng định: “Bản dịch đó vô giá không chỉ bởi nó là một tác phẩm văn học tuyệt mỹ mà còn là một chứng tích lịch sử “nằm lòng nhiều thế hệ độc giả ở Việt Nam”; ông còn phân tích thêm: “Chính vì thế nên trong suốt nhiều chục năm đã không ai dám dịch lại “Đợi anh về” vì những ấn tượng quá sâu sắc về bản dịch của nhà thơ Tố Hữu.”
Konstantin Mikhailovich Simonov sinh 1919 tại thành phố Sankt-Peterburg là một nhà văn, nhà thơ và nhà biên kịch Liên Xô nổi tiếng với những tác phẩm viết về Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Tháng 10 năm 1941, trong khi quân Đức đang tiến như vũ bão về thủ đô Moskva và Hồng quân đang lâm vào thế phải chống đỡ rất khó khăn, Konstantin Simonov đã cho ra đời bài thơ Đợi anh về (Жди меня). Ban đầu, bài thơ được sáng tác với ý định dành tặng riêng cho người yêu của tác giả là nghệ sĩ Valentina Serova, nhưng tình cờ tâm trạng của người lính trong bài thơ đã trùng với tâm trạng chung của hàng triệu người lính Hồng quân đang chiến đấu trên mặt trận, vì vậy “Đợi anh về” đã nhanh chóng trở nên phổ biến ở Liên Xô và sau đó là nhiều nước khác trên Thế giới. Mặc dù dịch qua một ngôn ngữ khác (tiếng Pháp) nhưng Tố Hữu đã chọn lựa một cách dịch tinh tế khi vẫn làm toát lên vẻ đẹp nhân văn của bài thơ. Thành công của bài thơ dịch này là Tố Hữu đã chuyển tải khá đầy đủ nội dung tư tưởng trong bài thơ mà K.Simonov gửi gắm: Đó là tình yêu bất tử giữa người chiến sĩ ở mặt trận với người con gái ở hậu phương. Người chiến sĩ ở mặt trận không thể chết vì có người mình yêu thương ở nhà chờ đợi. Niềm tin của người con gái rằng người mình yêu nhất định sẽ thắng trận, trở về. Nói như K.Simonov từ đầu bài thơ: “Em ơi đợi anh về” để rồi điệp khúc “đợi” được nhắc lại nhiều lần : “Em ơi em, cứ đợi” và “thì em ơi cứ đợi” ...
Những lời nhắn nhủ ấy được nhà thơ Tố Hữu đưa vào những vần thơ dịch một cách nhuần nhuyễn; đặc biệt ông đã thành công khi vần điệu của các câu thơ tiếp nối nhau tạo thành một mạch cảm xúc rất giàu biểu cảm; có không gian: Mưa, nắng, tuyết rơi; có sự so sánh liên tưởng đến bạn cũ, đến “mẹ già con dại”, đến cả những hình ảnh mang ấn tượng mạnh: “Nấm mồ xanh” “chén tình dốc cạn” để cuối cùng khẳng định: anh chẳng chết vì “không ai người” “biết như em chờ đợi”. Hãy đợi anh, hãy đợi, hãy đợi, hãy đợi ... Đó là lời nhắn gửi, gần như là lời cầu khẩn thiết tha, của người chiến sĩ ngoài mặt trận với người vợ - người yêu ở hậu phương, với lòng mong mỏi, niềm tin tưởng rằng sự chờ đợi kiên trì của người ở lại sẽ giúp anh vượt qua hiểm nguy, gian khổ để trở về.
Sở dĩ bài thơ này được bạn đọc Việt Nam nồng nhiệt đón nhận ngay từ khi được Tố Hữu dịch sang tiế ng Việt bởi sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn và tình cảm của biết bao con người - đặc biệt là sự đồng cảm trong tâm trạng của những người lính, những người vợ, người phụ nữ Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Họ đã “chôn tuổi thanh xuân trong má lúm đồng tiền” (Hữu Thỉnh) bền bỉ đợi chờ người ra trận, hẳn trong lòng họ có tiếng vọng thầm thì lời nhắc “Em ơi đợi anh về/ Đợi anh hoài em nhé”. Cho đến bây giờ thi phẩm vẫn làm say lòng biết bao thế hệ độc giả Việt Nam và thế giới.