
Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tùng
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết năm 1954, đồng chí tập kết ra miền Bắc, là Tiểu đội trưởng Tiểu đội trinh sát Tiểu đoàn 196, Sư đoàn 338 Đông Nam Bộ. Năm 1959, đồng chí chuyển về công tác tại Tiểu đoàn trinhsát 74, Cục 2, Bộ Tổng Tham mưu. Sau đó, được cử đi đào tạo chỉ huy tại Trường Sĩ quan Lục quân.
Đầu năm 1961, Thiếu úy Nguyễn Thanh Tùng cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết khác được tập trung tại Hòa Bình, tăng cường luyện tập, chuẩn bị hành quân vượt Trường Sơn về miền Nam chiến đấu. Ngoài rèn luyện thể lực, cán bộ, chiến sĩ còn tập bắn đạn thật để làm quen với các loại súng của đế quốc Mỹ. Sau hơn một tháng luyện tập, đồng chí cùng đồng đội được đưa về Cầu Phùng làm công tác chuẩn bị, biên chế lại đơn vị trước lúc lên đường. Trong thời gian này, đơn vị của đồng chí vinh dự được đón Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm hỏi, động viên. Đoàn trở về miền Nam trong đợt này được mang tên Phương Đông 2, do đồng chí Lê Quốc Sản làm Đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Hồng Lâm (Nguyễn Văn Bứa) làm Đoàn phó. Đoàn khởi hành vào tháng 3-1961. Nhiều thành viên của Đoàn sau khi trở về miền Nam chiến đấu đã trở thành những tướng lĩnh, chỉ huy quân sự chủ chốt trên chiến trường miền Nam.
Sau hơn 5 tháng hành quân dọc đường Trường Sơn, đầu tháng 9-1961, Đoàn Phương Đông 2 về tới Căn cứ Miền đóng tại đồi 300 Bình Long. Lúc bấy giờ, cách mạng miền Nam đã chuyển sang giai đoạn chiến lược mới. Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Sau phong trào Đồng khởi năm 1960, lực lượng Quân giải phóng ra đời và phát triển nhanh chóng, đòi hỏi một đội ngũ lớn các cán bộ lãnh đạo quân sự. Thiếu úy Nguyễn Thanh Tùng được phân công về Lữ đoàn 2 do đồng chí Nguyễn Thành Cộng là Lữ đoàn trưởng, đồng chí Tạ Minh Khâm là Lữ đoàn phó.
Sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng lập tức cùng Lữ đoàn hành quân trong ba tháng rưỡi về Chiến khu Đ ở Mã Bà, Đồng Nai. Với bản tính hăng hái, lại được trang bị thêm nghề trinh sát đặc công nên qua các chặng đường trọng điểm phục kích ngăn chặn của quân Mỹ - ngụy, đồng chí thường được phân công theo dõi, bám nắm địch để đơn vị vượt qua. Tại Chiến khu Đ, lữ đoàn tiếp nhận quân số, trang bị vũ khí và chính thức trở thành Trung đoàn 2 - một trong số ít những đơn vị chủ lực của chiến trường miền Nam lúc bấy giờ. Nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị thời gian này là học tập chính trị, quán triệt tình hình cách mạng miền Nam, chuẩn bị chiến trường để đối phó lại âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - ngụy. Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng là một trong những cán bộ đầu tiên được điều về xây dựng Đại đội trinh sát 20 (Trung đoàn 2). Đồng chí được phân công biệt phái về tỉnh Biên Hòa gặp đồng chí Trần Công An - Tỉnh đội trưởng để đề nghị giúp đỡ lực lượng. Tiếp đó, đồng chí được điều động về làm Chính trị viên phó Đại đội trinh sát 21 (Trung đoàn 2). Trận đầu ra quân của Đại đội 21 là trận đánh thí điểm ấp chiến lược Bàu Bàng mùa khô năm 1962. Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được phân công đi với mũi chủ công. Trận này, đại đội giành thắng lợi, bắt 1 tên địch, phá bung ấp chiến lược, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân nổi dậy chống lại sự kìm kẹp của địch để trở về quê cũ làm ăn. Tháng 12-1962, đồng chí cùng đại đội hành quân xuống đồng bằng, đóng tại ấp 3, Bờ Cảng, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gần Trung đoàn bộ.
Vào trung tuần tháng 12-1963, lúc này Đại đội 21 trực thuộc Trung đoàn 762 (mật danh Q762), vẫn là chủ lực mạnh cơ động của trung đoàn, tiếp tục chiến đấu ở làng 2 Dầu Tiếng. Đồng chí đã trực tiếp chỉ huy mũi chủ công của đơn vị tổ chức đánh địch, gây tiếng vang và tạo khí thế cho bộ đội.
Tháng 10-1964, do yêu cầu của chiến trường, Tiểu đoàn trinh sát 46 được thành lập trực thuộc Phòng Quân báo Bộ Tham mưu Miền, đóng ở căn cứ Trung ương Cục. Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được giao làm Chính trị viên phó, sau đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 46. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị tham gia nhiều chiến dịch lớn như:
Bình Giã (2-12-1964 - 3-1-1965), Đồng Xoài (10-5-1965 - 22-7-1965), Bàu Bàng - Dầu Tiếng (12-11-1965 - 27-11-1965), đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xity… đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Đơn vị do đồng chí chỉ huy luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong Chiến dịch Đồng Xoài, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng chỉ huy đơn vị luồn sâu đánh bất ngờ tiêu diệt đồn tiền tiêu, là một trung tâm truyền tin của địch trên đỉnh núi Bà Rá, Phước Long (cao 824m). Đồng thời, tiêu diệt lực lượng của địch đến chi viện. Quan trọng nhất là quân ta đã chiếm cao điểm Bà Rá và đặt đài quan sát, theo dõi điều tra tình hình hoạt động quân sự của địch trong cuộc chiến tranh. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), Tiểu đoàn trinh sát 46 đã tổ chức chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo vệ an toàn cho Sở chỉ huy và các đồng chí lãnh đạo của Bộ Chỉ huy Miền ở tiền phương.
Đơn vị có nhiệm vụ điều tra khảo sát đặt Sở chỉ huy tiền phương ở vùng ven Sài Gòn (Rạch Tra, Gò Môn); truyền đạt mệnh lệnh của Tư lệnh tiền phương cho chỉ huy các đơn vị thọc sâu vào hậu cứ của quân địch.
Năm 1969, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được điều về làm Phó phòng Đặc công Miền. Đồng chí xây dựng kế hoạch và trực tiếp chỉ huy bộ đội đặc công đánh thắng hai trận liên tiếp vào căn cứ Téchních, Bình Long - là Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 1 “Anh Cả Đỏ” và căn cứ đóng quân của Lữ đoàn kỵ binh bay 1 của đế quốc Mỹ. Trận thứ nhất vào đêm 12-5-1969, quân ta diệt 1.106 tên, phá hủy 21 máy bay, 105 xe quân sự, 20 khẩu pháo và quân ta đánh nhồi vào đêm 6-6-1969, tiêu diệt trên 1.000 tên, phá hủy 12 máy bay, san bằng 30 lô cốt, 50 hầm ngầm, đốt cháy 3 nhà kho chứa quân trang, quân dụng.
Tháng 6-1972, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được cấp trên giao nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn đặc công 113 (Đoàn 113). Đồng chí đã chỉ huy đơn vị thực hiện hai trận đánh lớn, lập chiến công oanh liệt làm chấn động trong nước và thế giới. Cụ thể: Đêm 2-8-1972, đơn vị bí mật, bất ngờ tập kích vào sân bay Biên Hòa, phá hủy 74 máy bay, 2 dàn rađa, 1 kho bom, diệt hàng trăm tên địch. Đặc biệt, đồng chí đã nhận chỉ thị của đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam: “Dù trường hợp nào cũng phải đánh cho được Tổng kho Long Bình… Cắt được dạ dày của chúng thì chúng phải ký Hiệp định Pari”. Và đêm 13-8-1972, trung đoàn do đồng chí chỉ huy đã tiến công Tổng kho Long Bình, phá hủy 150 nghìn tấn bom đạn, gần 1 triệu lít xăng, diệt trên 100 tên địch.
Sau hai trận đánh lớn mở đầu vào sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình, Trung đoàn 113 tiếp tục được Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam giao nhiệm vụ triển khai đánh tiếp các cứ điểm khác của địch. Phát huy khí thế ban đầu, trung đoàn tiếp tục giành nhiều chiến công mới. Sau này, trung đoàn đổi thành Đoàn Đặc công 113, được Đảng và Nhà nước 3 lần phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tháng 5-1973, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Đoàn Đặc công biệt động 27 (tương đương sư đoàn). Tháng 10-1973, đồng chí được cử đi học ở Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng). Ngày 20-4-1975, từ Học viện Quân sự Cao cấp, đồng chí lên máy bay vào Đông Hà, rồi đi xe con vào thẳng Lộc Ninh để kịp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4-1975 - 30-4-1975). Đồng chí được giao nhiệm vụ Phó Tư lệnh Sư đoàn đặc công 2, do đồng chí Nguyễn Văn Mây làm Tư lệnh Sư đoàn đánh vào hướng Tây Sài Gòn, theo đường 4, Long An. Lực lượng Sư đoàn đặc công 2 gồm: Trung đoàn 429, Trung đoàn 115, các trung đoàn 117, 116, 119... và được phối thuộc Trung đoàn bộ binh Gia Định, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Miền. Sư đoàn đặc công 2 đánh chiếm trung tâm truyền tin Phú Lâm (rađa Phú Lâm), căn cứ Tân Tạo, kho gạo Xa cảng miền Tây... Sư đoàn 2 hoàn thành nhiệm vụ, góp phần đưa Chiến dịch Hồ Chí Minh tới thắng lợi hoàn toàn.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được giao nhiều nhiệm vụ chỉ huy như: Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 5, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 310, Quân khu 7, Tham mưu trưởng tiền phương Quân khu 7, Phó Tư lệnh Mặt trận 779, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai, được thăng quân hàm Thiếu tướng năm 1989. Trên cương vị Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai giai đoạn 1987-1995, đồng chí đã chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế tại tỉnh Côngpông Thơm (Campuchia), trở về nước an toàn tuyệt đối và xây dựng tỉnh Đồng Nai thành khu vực phòng thủ vững chắc, nâng cao chất lượng và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang thường trực, xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Trên bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí luôn là người cán bộ chỉ huy quyết đoán, năng động, vững vàng bản lĩnh chính trị. Năm 1997, đồng chí nghỉ hưu và tiếp tục tham gia công tác tại địa phương nhiều năm liền trên cương vị Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai; đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa VIII và IX. Với các thành tích xuất sắc, dũng cảm, mưu trí lập được nhiều chiến công oanh liệt trong chiến đấu và chỉ huy chiến đấu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: 5 Huân chương Chiến công giải phóng; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất; 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang Nhất, Nhì, Ba; 3 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ… Ngày 6-11-1978, đồng chí được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân khi đang là Trung tá, Chỉ huy phó Đoàn Đặc công 429, Quân khu 7.