
Thiếu tướng Nguyễn Nam Hưng (1933-2019)
Cuối năm 1948, đồng chí Nguyễn Nam Hưng theo đơn vị hành quân về Bà Rịa, làm Thư ký đánh máy cho Văn phòng Trung đoàn 397. Trong thời gian này, đồng chí học thêm bổ túc văn hóa. Tháng 5-1950, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1952, xảy ra trận bão lụt khủng khiếp ở Nam Bộ, ta bị thiếu hụt lương thực, số quân ốm đau nhiều, đồng chí Nguyễn Nam Hưng được phân công phụ trách lớp thiếu sinh quân, chuyển lên xây dựng Căn cứ Sông Sót ở Xuyên Mộc. Đồng chí vừa lo tổ chức xây dựng chỗ ăn, ở, vừa tự túc sản xuất, chuẩn bị cơ sở học tập cho lớp học. Nhờ sự giúp đỡ, đùm bọc của đồng bào Xuyên Mộc, đơn vị đã vượt qua khó khăn; xây dựng được lán trại, sản xuất bắp, mì, lúa…, dần đi vào ổn định học tập. Mặc dù tuổi còn trẻ (19 tuổi), lần đầu tiên làm nhiệm vụ lãnh đạo nhưng đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, nên trung đoàn rất tin tưởng. Cuối năm 1953, đồng chí được chọn đi phục vụ và bảo vệ đoàn cán bộ vượt Trường Sơn ra miền Bắc, được giao nhiệm vụ Trợ lý Quân lực Sư đoàn 330.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ (1954), đồng chí Nguyễn Nam Hưng đi học tại Trường Sĩ quân Lục quân (1956-1958). Hơn hai năm học tập, đồng chí được rèn luyện toàn diện về chính trị, quân sự, thể lực, văn hóa; đặc biệt là những phẩm chất cần có của người sĩ quan chỉ huy. Kết thúc khóa học, đồng chí thực hành huấn luyện tại Đại đội 2, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 3, Sư đoàn 330. Trong thời gian huấn luyện (1958-1960), đồng chí luôn hoàn thành tốt các bài tập, được Bộ Chỉ huy Sư đoàn đánh giá là một sĩ quan có năng lực.
Sau phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, quân đội Sài Gòn được sự hậu thuẫn của đế quốc Mỹ ra sức mở các cuộc càn quét, bắn giết cán bộ, đồng bào yêu nước của ta.
Trước tình hình đó, là Trợ lý Phòng Tác chiến T1 (Quân khu 7), đồng chí Nguyễn Nam Hưng được phân công đi cùng Tiểu đoàn 500, nghiên cứu chiến trường, tổ chức chiến đấu. Đồng chí cùng tiểu đoàn tham gia nhiều trận: Đánh bốt Cầu Xe; phá ấp chiến lược suối Bà Tươi (ở Tây Ninh); đánh diệt giao thông trên lộ 13 Mỹ Phước; phá ấp chiến lược Bến Tượng (ở Bình Dương); diệt địch ở Bàu Cá Trê; diệt đồn Bà Cẩm; phá ấp chiến lược Sình, Bà Đã, Ván Hương (ở Nha Bích, Bình Phước)...; giải phóng vùng Nam Sông Bé; mở rộng căn cứ Chiến khu Đ lên hướng Bắc. Liên tục mấy năm liền (1961-1964), đồng chí Nguyễn Nam Hưng là cán bộ tác chiến T1 đi cùng tiểu đoàn, được Ban Chỉ huy Tiểu đoàn rất tín nhiệm; từ huấn luyện, nghiên cứu chiến trường đến tổ chức và thực hành chiến đấu, trước khi thực hiện đều hỏi ý kiến đồng chí. Ngày 15-11-1964, với cương vị Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 800, đồng chí Nguyễn Nam Hưng chỉ huy đơn vị phục kích trên đường 15, chặn đầu, đánh địch. Sau 30 phút chiến đấu, tiểu đoàn diệt gọn đoàn xe địch. Mới cầm quân, trận đầu đánh nghi binh cho chiến dịch thắng lợi giòn giã, đồng chí đã thể hiện được năng lực, bản lĩnh tổ chức và chỉ huy chiến đấu.
Trong Chiến dịch Bình Giã (2/12/1964 – 3/1/1965), Tiểu đoàn 800 có nhiệm vụ hành quân nghi binh xuống phía Nam đường 15, ép sát Nam thị trấn Long Thành, thọc qua phía Tây tiêu diệt đồn Tam An sát thị trấn.
Bằng khả năng quan sát nhạy bén của mình, đồng chí Nguyễn Nam Hưng nhận định: Để tiểu đoàn không bị cô lập ở phía Nam đường 15, không bị ép về một phía, ta phải gây rối địch ở mọi hướng. Đồng chí phân công Đại đội 2 vượt đường 15 về phía Bắc, chọn vùng Bình Sơn, An Viễn hoạt động.
Đại đội 2 tổ chức đánh nhỏ lẻ, liên tục làm cho địch phải phân tán đối phó trên Bắc lộ 15, giảm bớt sức ép của địch đối với tiểu đoàn ở Nam lộ; phối hợp với bộ đội, du kích địa phương nổi dậy phá kìm, phá ấp chiến lược, giành được nhiều thắng lợi lớn.
Sau Chiến dịch Bình Giã, phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược, phong trào du kích các tỉnh miền Đông phát triển mạnh, vùng giải phóng các nơi mở rộng. Thực hiện chủ trương của Bộ Chỉ huy Miền, Bộ Tư lệnh T1 (Quân khu 7) thành lập Trung đoàn 4 (Q764), gồm: Tiểu đoàn 800 (phiên hiệu Tiểu đoàn 1), Tiểu đoàn 308 (phiên hiệu Tiểu đoàn 3). Trong năm 1965, dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Nam Hưng, đơn vị tổ chức nhiều trận đánh giành những thắng lợi quan trọng như: Trận phục kích, đánh địch ở Nhà Đỏ - Cổng Xanh, đường 16 (Tân Uyên); trận La Ngà; trận tiêu diệt Yếu khu Gia Ray; trận đánh giao thông trên đường 15 (Bà Rịa).
Đầu năm 1966, để phân tán lực lượng địch và mở rộng vùng căn cứ, Sư đoàn bộ binh 5 chủ trương tiêu diệt quân Mỹ trên khu vực Tầm Bó. Thực hiện quyết tâm của sư đoàn, đồng chí Nguyễn Nam Hưng (lúc này là Tham mưu trưởng Trung đoàn 4), tổ chức nghiên cứu chiến trường và lên phương án tiêu diệt địch. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt, ta làm chủ trận địa hoàn toàn, tiêu diệt 1 tiểu đoàn lính Mỹ của Lữ đoàn 199, thu nhiều súng và trang bị. Sau chiến thắng Tầm Bó, Trung đoàn 4 dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Nam Hưng và Ban Chỉ huy Trung đoàn, tiếp tục tổ chức các trận đánh, tiêu diệt địch ở phía Đông lộ 2 (đoạn Kim Long), trường bắn Vạn Kiếp (ở Phước Tân)...
Bước sang năm 1967, trên chiến trường Bà Rịa - Long Khánh, địch liên tục đánh phá vào vùng căn cứ khu tam giác giao lộ giữa ba con đường 1, 2 và 15, hòng phá kho tàng hậu cần, “tróc” các cơ quan huyện, tỉnh của ta. Trước tình hình đó, Trung đoàn trưởng Nguyễn Nam Hưng và Ban Chỉ huy Trung đoàn chỉ đạo các đơn vị của trung đoàn luôn bám sát mọi hoạt động của địch, thực hành đánh lẻ, đánh nhỏ trên khắp địa bàn. Bằng những đòn tiến công bất ngờ, táo bạo, kết hợp với từng tổ hỏa lực B40 đánh lẻ bọn lính thiết giáp, trung đoàn cùng lực lượng địa phương đã gây cho địch những tổn thất lớn. Để đánh bật Trung đoàn 4 ra khỏi địa bàn, quân Mỹ liên tục càn quét khu vực Đông - Tây lộ 2. Nhưng, với quyết tâm và những kinh nghiệm trong tổ chức tập kích bộ binh, cơ giới Mỹ đóng quân dã ngoại, Trung đoàn trưởng Nguyễn Nam Hưng đã chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt với địch, trụ vững trên chiến trường Bà Rịa - Long Khánh.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, Trung đoàn 4 nhận nhiệm vụ đánh các mục tiêu: Liên trường Thủ Đức, cầu Đồng Nai, nhà máy nhiệt điện Thủ Đức. Sau khi tự mình đi nghiên cứu chiến trường, đồng chí Nguyễn Nam Hưng bàn bạc với Ban Chỉ huy Trung đoàn lên kế hoạch tác chiến. Mặc dù, các trận đánh vào sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, nhà máy nhiệt điện, các tiểu đoàn bị thương vong cao, mất sức chiến đấu, nhưng nhờ được địa phương giúp đỡ, bảo đảm hậu cần nên đơn vị vẫn bám trụ chiến trường; tiêu hao một lực lượng lớn sinh lực, vũ khí, trang thiết bị chiến tranh của Mỹ - ngụy.
Sau Tết Mậu Thân (1968), Trung đoàn 4 được giao nhiệm vụ đánh mồi, nhằm kéo các trung đoàn của Sư đoàn 18 ngụy ra để Sư đoàn bộ binh 5 tổ chức đánh tiêu diệt. Sau khi cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn nghiên cứu và hạ quyết tâm đánh một trận trên đường 20 (đoạn cầu La Ngà về hướng Long Khánh), đồng chí Nguyễn Nam Hưng trực tiếp chỉ huy trận đánh. Sau 1 ngày chiến đấu quyết liệt, đơn vị tiêu diệt cả đoàn xe 20 chiếc, diệt đại đội bảo an La Ngà và một đại đội của Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 ngụy trên xe. Tháng 9/1969, đồng chí Nguyễn Nam Hưng nhận nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn Đồng Nai. Trước tình hình quá khó khăn về lương thực của trung đoàn, đồng chí suy nghĩ, là chủ lực làm sao để thọc sâu, trụ như thế nào, đánh bằng cách nào, bằng những kinh nghiệm chiến đấu, đồng chí đã quyết định: Bước 1, áp sát ấp chiến lược Bình Mỹ, Bình Cơ ở phía Bắc đường 16, liên lạc với dân, đánh địch bung ra và đêm vào ấp chiến lược tải gạo. Đồng thời, ở ven rừng đào hầm bí mật, tập nằm hầm bí mật. Bước 2, tổ chức thành từng tổ 3 người, mỗi trung đội chọn từ 2 đến 3 tổ thọc xuống Vĩnh Tân đào hầm bí mật, ngày ở hầm, vào dân liên lạc, đến đêm thọc vào ấp chiến lược Vĩnh Trường, đánh và giải quyết hậu cần. Được nhân dân ủng hộ nhiệt tình, đồng chí Nguyễn Nam Hưng chỉ đạo các tiểu đoàn hoạt động đột ấp chiến lược, diệt bọn tuần tiễu, kìm kẹp nhân dân, đánh nhỏ, đánh lẻ thường xuyên và giải quyết hậu cần cho trung đoàn bước đầu có hiệu quả.
Đầu năm 1971, đồng chí Nguyễn Nam Hưng được bổ nhiệm Tham mưu phó Sư đoàn bộ binh 5. Đồng chí về Sư đoàn bộ binh 5 đúng lúc quân ngụy mở cuộc hành quân phản công lên biên giới Campuchia mang tên “Toàn thắng 1.71 NB” với quy mô lớn. Ta chủ trương tiến công địch: Hướng chủ yếu ở Suông - Chup - Đầm Be. Hướng thứ yếu từ Lộc Ninh theo đường 13 lên Snuôn. Đồng chí Nguyễn Nam Hưng chỉ huy đơn vị từ Crachiê theo đường 13 xuống Snuôn trước, đón Sở chỉ huy Sư đoàn từ đường 14K Bù Đốp hành quân qua Bắc Snuôn. Sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Sư đoàn tổ chức các trận đánh ở Snuôn và vùng ven. Sau gần 4 tháng (từ 4/2 đến 30/5/1971) chiến đấu liên tục, Sư đoàn bộ binh 5 tiêu diệt hoàn toàn căn cứ địch ở Snuôn.
Tháng 11/1971, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở Chiến dịch Nguyễn Huệ (1/4/1972 – 19/1/1973). Sư đoàn bộ binh 5 nhận nhiệm vụ đánh trận then chốt, tiêu diệt cụm cứ điểm Lộc Ninh, mở đầu cho chiến dịch. Đồng chí Nguyễn Nam Hưng tổ chức đoàn cán bộ đi nghiên cứu trên hai hướng chủ yếu, thứ yếu và bộ phận đánh viện. Sau gần 2 tuần tiến công, chiến đấu quyết liệt với địch, sư đoàn hoàn toàn làm chủ Chi khu Lộc Ninh, bắt Chi khu trưởng và nhiều tù binh. Lần đầu tham gia một trận đánh lớn với quy mô sư đoàn tăng cường có binh chủng hợp thành, đồng chí Nguyễn Nam Hưng đã hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, tổ chức hiệp đồng, tham gia chỉ huy hành quân và chỉ huy chiến đấu; tham mưu chính xác trong những thời điểm quyết định, giúp cho sư đoàn trưởng có những quyết định đúng đắn.
Giữa tháng 6/1972, toàn đội hình chiến đấu của Sư đoàn bộ binh 5 tập kết ở tỉnh Xvây Riêng, sát biên giới Kiến Tường, Kiến Phong, Long An; chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, tổ chức, vật chất (nhất là xuồng) để cơ động. Dưới sự chỉ huy của Tham mưu phó Nguyễn Nam Hưng và Bộ Chỉ huy Sư đoàn, cùng sự phối hợp của địa phương, sư đoàn đã tổ chức nhiều trận đánh, điển hình như: tiêu diệt đồn Thày Yến, diệt địch đóng ở chùa Phật Đá, kênh Nguyễn Văn Tiếp...
Tháng 7/1974, đồng chí Nguyễn Nam Hưng được cử đi học tại Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng). Sang năm 1975, trước tình hình chiến sự miền Nam diễn ra hết sức khẩn trương, đồng chí Nguyễn Nam Hưng xin cấp trên trở về miền Nam chiến đấu và được chấp thuận.
Về lại Sư đoàn bộ binh 5, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn tổ chức đánh trận quyết định giải phóng Long An, góp phần cùng quân và dân cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tháng 10/1975, đồng chí Nguyễn Nam Hưng nhận quyết định về làm Trưởng phòng Tác chiến, Bộ Tham mưu Quân khu 7. Đồng chí về nhận nhiệm vụ vào thời điểm quân Pôn Pốt xâm phạm biên giới nước ta, Phòng Tác chiến Quân khu là đầu mối tổng hợp tin tức nên phải hoạt động với cường độ cao. Với cương vị là Trưởng phòng, mọi báo cáo về trực ban, đồng chí đều xem hết, các điện cơ yếu đều phải đọc kỹ, tra bản đồ và xác định vị trí bên ta, bên đất Campuchia...
Ngày 19/8/1978, Quân khu quyết định thành lập Sư đoàn 303, đồng chí Nguyễn Nam Hưng là Sư đoàn trưởng. Với cương vị Sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Nam Hưng cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn 303 tổ chức nhiều trận đánh, giành thắng lợi; giải phóng và cứu đói nhân dân Campuchia trên vùng rộng lớn từ tỉnh Côngpông Chàm tới tỉnh Côngpông Thơm, góp phần giải phóng đất nước Campuchia. Cuối năm 1979, tình hình biên giới phía Bắc giữa Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng thẳng, đồng chí Nguyễn Nam Hưng nhận nhiệm vụ tổ chức đơn vị hành quân ra Hà Nam Ninh (Quân khu 3); xây dựng phương án đánh quân địch đổ bộ bằng đường biển lên Hải Hậu (Nam Định), phối hợp cùng Quân đoàn 1 giữ vững dãy Tam Điệp. Năm 1983, quay trở về miền Nam, đồng chí nhận nhiệm vụ Phó Tham mưu trưởng, Trưởng phòng Tác chiến Quân khu 7. Đầu năm 1984, đồng chí được cử đi học tại Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12/1985, đồng chí được bổ nhiệm Phó Tư lệnh Mặt trận 779, Đoàn trưởng Đoàn Chuyên gia quân sự tỉnh Côngpông Thơm (Campuchia). Tháng 6-1986, đồng chí đảm nhiệm quyền Tư lệnh Mặt trận 779. Năm 1989, đồng chí được thăng quân hàm Thiếu tướng.
Sau khi Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, đầu năm 1990, đồng chí Nguyễn Nam Hưng được bổ nhiệm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, Ủy viên Thường vụ Đặc khu ủy. Nhận nhiệm vụ mới, đồng chí bắt tay ngay vào củng cố đơn vị, sắp xếp cán bộ. Sau hai năm củng cố, nguồn cán bộ Đặc khu đã ổn định đi vào nền nếp. Mọi công tác tổ chức, huấn luyện, tuyển quân, xây dựng lực lượng dự bị động viên hằng năm đều hoàn thành tốt. Qua mấy lần diễn tập chỉ huy cơ quan và có thực binh đều được Quân khu đánh giá cao. Lực lượng vũ trang tỉnh được cấp ủy, chính quyền địa phương tin tưởng. Trong quy hoạch tổng thể của tỉnh, đồng chí cùng chính quyền đi khảo sát từng con đường, từng cây cầu để lên kế hoạch xây dựng hệ thống đường sá, góp ý xây dựng các công trình lớn… được Ban lãnh đạo đồng tình, ủng hộ. Là thành viên trong Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí cùng Ban lãnh đạo tỉnh đã lên kế hoạch và thực hiện thành công chủ trương “Lấy đất đổi công trình”. Chủ trương đó của Bà Rịa - Vũng Tàu sau này đã lan sang các tỉnh, thành khác như: Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1999, đồng chí được nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi khi nghỉ hưu, đồng chí vẫn tích cực tham gia các hoạt động đoàn thể ở địa phương, đóng góp một phần công sức vào các hoạt động từ thiện, giúp đỡ các cựu chiến binh có hoàn cảnh khó khăn và nhiều gia đình chính sách, người nghèo trên địa bàn. Ngày 14/8/2019, sau thời gian lâm bệnh nặng, đồng chí đã từ trần.
Đồng chí Nguyễn Nam Hưng tham gia cách mạng từ khi còn nhỏ tuổi, trải qua hai cuộc kháng chiến cho đến ngày toàn thắng, đất nước thống nhất, đồng chí tiếp tục cùng quân và dân cả nước chiến đấu bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Cuộc đời của đồng chí gắn liền với Nam Bộ, với cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, giữ vững nền độc lập dân tộc.
Những năm tháng chiến đấu, hoạt động và công tác của đồng chí xứng đáng là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo. Ghi nhận những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng Quân đội và phát triển đất nước, đồng chí được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Ba; 3 Huân chương Quân công hạng Nhì; 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất do Nhà nước Campuchia tặng; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.