Trung Quốc - quốc gia sản xuất thép lớn nhất thế giới, đang đối mặt với một thách thức lớn: làm sao để giảm thiểu tình trạng dư thừa công suất sản xuất và bảo vệ môi trường.
Theo Mysteel, 4 nhà máy thép tại Tân Cương (Trung Quốc) đã cắt giảm 10% sản lượng nhằm đối phó với lợi nhuận sụt giảm và tình trạng dư cung.
Tuy nhiên, tác động của đợt cắt giảm này lên thị trường chung vẫn còn hạn chế, vì khu vực Tây Bắc này chỉ chiếm 1,3% tổng sản lượng thép của Trung Quốc trong năm ngoái, theo dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc.
Mysteel ước tính tổng mức cắt giảm lần này của các nhà máy trên khoảng 2.000 tấn thép/ngày, trong tổng sản lượng gần 3 triệu tấn/ngày của cả Trung Quốc. Động thái này diễn ra sau khi chính phủ cam kết cắt giảm sản lượng tại kỳ họp quốc hội thường niên hồi đầu tháng, nhằm giải quyết tình trạng sản xuất dư thừa đang đè nặng lên ngành thép.
“Đây chủ yếu là động thái mang tính tâm lý”, Mysteel nhận định.
Một số nhà máy thép Trung Quốc cắt giảm sản lượng do dư cung và lợi nhuận thấp
Các công ty cắt giảm sản lượng gồm công ty thép Xinjiang Ba Yi Iron, thuộc tập đoàn sản xuất thép hàng đầu thế giới China Baowu Steel Group và các công ty thép Xinjiang Kunlun Steel Co., Xinjiang Minxin Iron Steel Group Co., và Xinjiang Kunyu Iron & Steel Co.
Tương tự, Baosteel - một trong những công ty thép lớn nhất tại Trung Quốc cũng đã thông báo kế hoạch giảm sản lượng thép trong năm nay nhằm tuân thủ các quy định của chính phủ. Các nhà sản xuất thép khác như HBIS Group và Shougang cũng đang thực hiện các biện pháp tương tự, chuyển hướng sang sản xuất các sản phẩm thép có giá trị gia tăng cao hơn.
Việc giảm sản lượng được cho sẽ giúp các công ty thép điều chỉnh lại chuỗi cung ứng, giảm thiểu tình trạng dư thừa thép trên thị trường trong nước và quốc tế.
Điều này cũng góp phần làm giảm căng thẳng thương mại, đặc biệt là khi xuất khẩu thép Trung Quốc đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt và nhu cầu yếu từ các thị trường quốc tế.
Động thái của Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU và Hàn Quốc tăng cường hàng rào thương mại bảo vệ ngành thép nội địa.
Cơ hội nào cho thép Việt Nam?
Tại Việt Nam, theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), năm 2024, sản xuất thép thô của cả nước đạt 22 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023; tiêu thụ thép thô đạt 21,4 triệu tấn, tăng 14%. Trong đó, chủ yếu xuất khẩu phôi dẹt đạt 2,8 triệu tấn, tăng 55% so với cùng kỳ.
Sản xuất thép thành phẩm các loại đạt 29,4 triệu tấn, tăng 6,1%. Trong đó, sản xuất thép tôn mạ kim loại và sơn phủ màu đạt cao nhất là 23,1%, Thép xây dựng tăng 10,1%, ống thép tăng 3,5% và HRC là 1,5%. Duy nhất sản xuất Thép cuộn cán nguội ghi nhận mức tăng trưởng âm là 19,4%.
Bán hàng thép thành phẩm đạt 29 triệu tấn, tăng 10,4% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu thép thành phẩm năm 2024 đạt 8 triệu tấn, giảm nhẹ 0,6% so với cùng kỳ 2023. Tất cả các mặt hàng đều ghi nhận tăng trưởng trừ cuộn cán nóng giảm 33,8%.
VSA nhận định tình trạng cung vượt cầu của nhiều sản phẩm thép sản xuất trong nước, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của thép nhập khẩu sẽ gây ra sức ép cạnh tranh về giá thép thành phẩm và cạnh tranh trong thị trường nội địa sẽ trở nên khốc liệt hơn.
Năm 2025, VSA cho rằng ngành thép tiếp tục phải đối mặt với các khó khăn thách thức như Trung Quốc tiếp tục gia tăng xuất khẩu, khi thị trường nội địa yếu. Các nhà sản xuất thép Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ mất thị trường nội địa, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và công ăn việc làm của người lao động.
Tình trạng cung vượt cầu của nhiều sản phẩm thép sản xuất trong nước, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của thép nhập khẩu sẽ gây ra sức ép cạnh tranh về giá thép thành phẩm và cạnh tranh trong thị trường nội địa sẽ trở nên khốc liệt hơn.
Đặc biệt, việc đứt gãy chuỗi cung ứng, giá cước vận tải quốc tế… tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các nhà sản xuất thép. Bên cạnh đó, các yếu tố biến động đến giá nguyên nhiên vật liệu… sẽ làm tăng chi phí không nhỏ cho sản xuất thép.
“Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước lớn, đặc biệt các nước đều gia tăng các hàng rào kỹ thuật, tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại, lạm dụng chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh… làm công cụ và hàng rào ngăn cản thép nhập khẩu để bảo hộ sản xuất thép trong quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này sẽ là lực cản không nhỏ đối với việc xuất khẩu thép Việt Nam trong thời gian tới”, VSA cho biết.
Thúy Hà