Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm
Vua Hùng một sáng đi săn
Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi
Đẹp lòng vua phán bầy tôi
Tìm đất kén thợ định nơi xây nhà
Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đôi với chày ba rập rình
Đêm đêm tiếng thậm... tiếng thình...
Cối thơm thơm cả nghĩa tình nước non.
Không còn dấu cũ lầu son
Phía sau thành phố khói vờn trong mây
Trời cao nắng tỏa đường cây
Nhịp chày xưa thoảng đâu đây... Thậm Thình!
Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi (1933-2008) quê Thanh Chương, Nghệ An, từng nhiều năm công tác ở Phú Thọ, chính sự gắn bó với vùng đất nên thơ, trù phú và giàu truyền thuyết ấy đã khơi gợi cho nhà thơ viết nên bài thơ Qua Thậm Thình. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên của một xóm núi có tên là Thậm Thình - một địa danh ở vùng ngoại thành Việt Trì, Phú Thọ. Không có tài liệu chính xác, nhưng giới nghiên cứu luôn khẳng định: cùng với Minh Nông thì Thậm Thình là một trong hai trung tâm lớn tại kinh đô thời Hùng Vương. Nếu Minh Nông là nơi vua Hùng dạy dân trồng lúa nước thì Thậm Thình là trung tâm thương mại lớn, là nơi ăn nghỉ của các quân tướng, tộc trưởng khắp miền khi về chầu vua Hùng. Xóm Thậm Thình ngày nay chính là xóm 2, phường Vân Phú, giờ thuộc về thành phố Việt Trì.
Bài thơ lục bát giản dị như một câu chuyện kể đưa người đọc trở về với một không gian, thời gian đượm màu cổ tích: “Đi qua xóm núi Thậm Thình/ Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm”. Hai câu mở đầu chỉ là nguyên cớ để khơi nguồn cảm xúc cho tứ thơ phát triển. “Vua Hùng một sáng đi săn/ Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này/ Dân dâng một quả xôi đầy/ Bánh chưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi”. Hình ảnh vua Hùng đi săn hiện lên trong lời thơ, nhưng điều gây ấn tượng lại là tình cảm của vị vua sáng và dân hiền thắm thiết gần gũi và cảm động xiết bao. Giữa khung cảnh nước non thanh bình và hữu tình ấy là cảnh các bô lão dâng xôi bánh cho vua Hùng để tỏ lòng tôn kính, biết ơn của trăm dân đối với vị vua biết chăm lo cho dân nước bình yên. Lễ vật dâng vua không phải là sơn hào hải vị mà chỉ là những vật phẩm được làm ra từ tấm lòng thơm thảo của con người nơi thôn dã. Cảm tấm lòng của trăm dân vua Hùng cho chọn đất tốt làm nơi dựng lầu đặt kho chứa gạo cho cả đất nước. Tuyển chọn các cô thôn nữ đẹp người, đẹp nết về đây giã gạo, làm ra những “hạt ngọc” trắng trong quí nhất trời đất này. “Trăm cô gái tựa tiên sa/ Múa chày đôi với chày ba rập rình/ Đêm đêm tiếng thậm tiếng thình/ Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non”. Âm thanh tiếng chày giã gạo ấy là âm thanh của cuộc sống ấm no, thanh bình và hạnh phúc. Ngôn ngữ bài thơ thật giản dị mà giàu sức gợi hình, gợi cảm, tiếng giã gạo thậm...thình trải qua bốn nghìn năm như còn vang vọng đâu đây, sâu nặng nghĩa tình non nước.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian lịch sử, dấu tích xưa đã bị bụi thời gian phủ mờ theo năm tháng. Nhưng tấm lòng của mỗi người con đất Việt đối với các vị vua Hùng có công lập nước vẫn còn nguyên vẹn. “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” (Nguyễn Khoa Điềm), nghĩa tình vua tôi vẫn ấm nồng như tiếng chày thậm thình còn vang vọng mãi đến mai sau. Bài thơ Qua Thậm Thình của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi vừa như một lời tri ân vừa là một lời nhắc nhở muôn đời con cháu luôn phải biết hướng về nguồn cội. Đó cũng là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ xưa tới nay mà mỗi người phải luôn gìn giữ.