(QK7 Online) - Trong bài thơ “Cảm hứng đọc “Thiên gia thi” (Khán “Thiên gia thi” hữu cảm), Bác Hồ viết: “Thơ xưa chuộng cảnh thiên nhiên đẹp/ Mây, gió, trăng, hoa, tuyết núi, sông”. Quả đúng vậy, từ xưa tới nay thiên nhiên vốn là bầu bạn, là nguồn cảm hứng dạt dào cho các thi nhân sáng tác. Hình ảnh trăng đã trở thành tri âm tri kỉ đối với các nhà thơ, là nơi người viết gửi gắm nỗi lòng với thiên nhiên, với quê hương, đất nước. Đến với bài thơ “Ánh Trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy chúng ta còn bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Thơ Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca, có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm, triết lí, suy tưởng, khiến người đọc nhiều khi giật mình bởi những điều rất đơn giản mà thấm thía trong con chữ. Ông có nhiều bài thơ được người đọc yêu thích như : Tre Việt Nam, Đò Lèn, Hơi ấm ổ rơm, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa... Bài thơ Ánh Trăng được rút ra từ tập thơ cùng tên, sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khiến người đọc có cách nhìn nhận chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống, về quá khứ qua hình ảnh trung tâm “ánh trăng”. Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh ánh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh: “Hồi nhở sống ở đồng/ với sông rồi với bể/ hồi chiến tranh ở rừng/ vầng trăng thành tri kỉ”. Nhà thơ không ham tả nhiều về ánh trăng và mục đích cũng không phải là tả trăng, chỉ trong bốn câu thơ ngắn gọn Nguyễn Duy đã gợi lên được cả một kí ức tuổi thơ và kí ức thời chiến tranh. Một kí ức tuổi thơ êm đềm với ánh trăng, với dòng sông, cánh đồng, gắn với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng trong trẻo dịu dàng theo suốt cả tuổi thơ nuôi lớn tâm hồn từ ngày thơ ấu. Lớn lên, vầng trăng theo nhà thơ vào chiến trận, trăng trở thành tri âm tri kỉ, “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ đầu súng trăng treo” (Chính Hữu), thành người bạn đồng hành, người bạn tâm tình đáng mến, thủy chung, son sắt. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất khéo, rất tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội cụ Hồ. Sự gắn bó quấn quýt, tình cảm chân thành và trong sáng giữa anh bộ đội và anh trăng thật đáng ngưỡng mộ.
Cứ “ngỡ không bao giờ quên/ cái vầng trăng tình nghĩa” nhưng đó vẫn chỉ là “ngỡ’ thôi. Chính từ “ngỡ” ấy là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng ở khổ thơ tiếp theo: “Từ hồi về thành phố/ Quen ánh điện cửa gương/ Vầng trăng đi qua ngõ/ Như người dưng qua đường”. Thời gian trôi đi, cuộc sống biến chuyển không ngừng, người lính năm xưa giờ về thành phố, quen dần với cuộc sống tiện nghi và quên đi người bạn nghĩa tình năm nào. Hai chữ “người dưng” đã gợi lên cảm giác xót xa đến tột độ. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững xem như kẻ qua đường, không hơn không kém. Phép so sánh đấy đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều nuối tiếc, day dứt, xót xa cho một sự thay đổi. Nếu như không có một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt “Thình lình đèn điện tắt/ phòng buyn-đinh tối om/vội bật tung cửa sổ/ đột ngột vầng trăng tròn”, thì có lẽ nhà thơ cũng chưa nhận thức được những điều rất giản đơn nhưng lại là những bài học của cuộc sống. Sau chiến tranh, tác giả trở về với cuộc sống thường ngày, bận rộn với thực tại và có thể đã “quên mất” quá khứ, quên mất người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Chính cuộc sống đủ đầy hiện tại với đèn điện sáng trưng, ánh trăng trở nên mờ nhạt. Đến khi “đèn điện tắt” tác giả mới giật mình, thảng thốt nhận ra căn phòng tối om và nhận ra lương tâm mình đã thay đổi. Tác giả đã nhận ra sự vô tâm, hờ hừng của bản thân đối với quá khứ, đối với “người bạn tri kỉ” một thời gắn bó.
Kết lại bài thơ đã đem đến cho người đọc nhiều nhận thức và những cảm xúc khó tả. Dù cuộc sống đổi thay, con người thay đổi, ánh trăng vẫn thế, bao dung và rộng lượng. Nó có ý nghĩa như một lời cảnh tỉnh, lời nhắc nhở chúng ta đừng quên đi những gì đẹp đẽ đã gắn bó với con người trong quá khứ. Đừng quên đi đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta “uống nước nhớ nguồn”. Chính vì giá trị nhân văn của bài thơ đã khiến bài thơ sống mãi trong lòng bạn đọc.