Lá cờ Quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm De Castries trong ngày Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ảnh: Tư liệu
Trước nguy cơ thất bại, được sự giúp sức của đế quốc Mỹ, từ giữa năm 1953, Bộ chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương bắt đầu thực hiện Kế hoạch Nava, xây dựng khối cơ động chiến lược mạnh, nhằm giành quyền chủ động trên chiến trường chính.
Trước tình hình đó, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp, thảo luận và thông qua nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá đúng âm mưu, kế hoạch chiến lược của địch và khả năng của ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”.
Trung ương Đảng đề ra chủ trương tác chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954, sử dụng một bộ phận chủ lực mở các chiến dịch tiến công vào những hướng địch sơ hở, buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động chiến lược để đối phó, tạo thời cơ cho ta tập trung lực lượng tiêu diệt địch trên các hướng có lợi nhất; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở các vùng đồng bằng sau lưng địch, tranh thủ cơ hội tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch nếu chúng đánh vào vùng tự do của ta.
Giữa tháng 11/1953, phát hiện chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, thực dân Pháp mở cuộc hành quân Caxto, đổ 6 tiểu đoàn Âu-Phi tinh nhuệ đánh chiếm Điện Biên Phủ. Tiếp đó, địch quyết định bỏ Lai Châu, co lực lượng về Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng, phương tiện, xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh, nhằm bảo vệ Thượng Lào, sử dụng Điện Biên Phủ như một cái bẫy tiêu diệt các đại đoàn chủ lực của ta.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm 49 cứ điểm, có 8 trung tâm đề kháng, được chia thành 3 phân khu: Phân khu trung tâm; phân khu Bắc; phân khu Nam. Lực lượng có 12 tiểu đoàn, 7 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105mm, 2 tiểu đoàn súng cối 120mm, 1 đại đội trọng pháo 155mm, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải, 1 phi đội máy bay. Pháo binh bố trí ở 2 căn cứ Mường Thanh và Hồng Cúm. Tổng số quân lúc đầu là 11.800 quân, chủ yếu là lính dù và Âu-Phi tinh nhuệ, đặt dưới quyền chỉ huy của Đờ Caxtơri.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp, thông qua kế hoạch tác chiến và quyết định, tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giải phóng toàn bộ Tây Bắc, tạo sự chuyển biến mới trong cục diện kháng chiến, tạo điều kiện cho Lào giải phóng Thượng Lào. Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận Võ Nguyên Giáp; Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm, Chủ nhiệm Cung cấp Đặng Kim Giang.
Lực lượng tham gia chiến dịch lúc đầu gồm: Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316; Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304); Đại đoàn Công pháo 351; Trung đoàn Pháo phòng không 367. Tổng số quân chủ lực khoảng hơn 40.000. Nếu tính cả tuyến hai, thì số quân lên tới 55.000. Lực lượng phục vụ chiến dịch gồm: 628 ô tô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, 261.500 dân công, cùng nhiều tàu thuyền, lừa, ngựa.
Ngày 14/1/1954, Bộ Chỉ huy Chiến dịch phổ biến kế hoạch tác chiến tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Trong quá trình ta chuẩn bị, địch đã tăng cường lực lượng từ 7 đến 12 tiểu đoàn, xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc hơn. Bộ Chỉ huy nhận thấy, đánh theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sẽ không đảm bảo chắc thắng, nên quyết định tạm dừng cuộc tiến công, kéo pháo ra, rút bộ đội, dân công về vị trí tập kết, tiến hành công tác chuẩn bị theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.
Ngày 13/3/1954, chiến dịch bắt đầu và trải qua 3 đợt. Đợt 1 (từ ngày 13 đến 17/3), các Đại đoàn 312, 308 tiến công tiêu diệt các cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo (Phân khu Bắc).
Đợt 2 (từ ngày 30/3 đến 24/4), các Đại đoàn 316, 308, 312 tiến công các cứ điểm phía đông (C1, E, D, A1), xây dựng trận địa bao vây, đánh lấn, chia cắt tập đoàn cứ điểm, khống chế, cắt đứt chi viện đường không của địch.
Đợt 3 (từ ngày 1 đến 7/5), các Đại đoàn 308, 312, 304, 316 đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía Đông, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch ở phía Tây, tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trong 56 ngày đêm, quân ta đã tiêu diệt và bắt hơn 16.000 tên địch, bắt sống toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm do tướng Đờ Caxtơri chỉ huy; loại khỏi vòng chiến đấu 21 tiểu đoàn; bắn rơi, phá hủy 62 máy bay, bắn hỏng 4 xe tăng; thu 30 trọng pháo, 6 xe tăng, hơn 30.000 chiếc dù, toàn bộ vũ khí, đạn, quân trang, quân dụng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của Quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của chúng. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và bán đảo Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.