Lời thề cỏ may Làm sao quên được tuổi thơ Tuổi vàng, tuổi ngọc - tôi ngờ lời ai Thuở ấy tôi mới lên mười Còn em lên bảy, theo tôi cả ngày Quần em dệt kín cỏ may Áo tôi đứt cúc, mực dây tím bầm Tuổi thơ chân đất đầu trần Từ trong lấm láp em thầm lớn lên Thế rồi xinh đẹp là em Em ra tỉnh học em quên một người Cái hôm nghỉ Tết vừa rồi Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò Gặp tôi, em hỏi hững hờ “Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?” Em đi để lại chuỗi cười Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê Trăng vàng đêm ấy, bờ đê Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may... Phạm Công Trứ
|
(QK7 Online) - Phạm Công Trứ tự nhận mình là “quê mùa”- gã nhà quê ở phố, thơ ông mộc mạc, hồn nhiên, chân thật như chính con người mình. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê ven biển Hải Hậu, Nam Định, Phạm Công Trứ gắn bó với làng quê bằng một tình yêu giản dị mà sâu sắc. Trong thơ ông luôn ám ảnh hình bóng quê nhà với lũy tre, cánh đồng, rơm rạ, ông chủ trương quay về khơi tiếp cái mạch hồn quê, cái phong vị mà ông rất yêu trong thơ Nguyễn Bính. Và người ta nhớ đến Phạm Công Trứ là nhớ đến bài thơ Lời thề cỏ may, một bài thơ đã giúp ông “định danh” trong làng văn chương đa sắc màu hiện nay. Không phải thi sĩ nào cũng có cái may mắn ấy trong những buổi đầu cầm bút. Có người đã nhận xét về ông như thế này: “Nếu ví mỗi thi sĩ là một loài hoa, không làm no nhưng có thể làm đẹp cho đời, thì Phạm Công Trứ là một bông hoa gạo “Tháng ba môi hồng cười toét”. Hoa gạo thật quê, thật khỏe”.
Bài thơ Lời thề cỏ may của Phạm Công Trứ với một mẩu kí ức tuổi thơ, một mối tình thơ đã khơi dậy niềm rưng rưng xúc động đối với những tâm hồn đồng cảm. Những câu thơ như những nỗi niềm, sự hụt hẫng bâng khuâng, rất đẹp, rất tình, rất thơ khắc khoải đến nao lòng. Câu thơ mở đầu thốt lên đầy tiếc nuối: “Làm sao quên được tuổi thơ”, vâng! ai cũng có một “miền kí ức” của riêng mình, là cái thời vô tư, hồn nhiên nhất, trong sáng nhất, là thời “tuổi vàng tuổi ngọc”. Và mỗi khi nhớ về miền kí ức ấy thì những kỉ niệm ùa về tươi mới sống động như đang diễn ra trước mắt vậy. Phạm Công Trứ đã kể về kí ức của mình với nhân vật “tôi” và “em”: “Thuở ấy tôi mới lên mười/ Còn em lên bảy, theo tôi cả ngày/ Quần em dệt kín cỏ may/ Áo tôi đứt cúc, mực dây tím bầm”, đó là cả một miền kí ức tươi đẹp khi “tôi” và “em” chưa vướng bận những xô bồ của cuộc đời đầy bon chen danh lợi. Lời thơ giản dị, mộc mạc gợi về một khung trời tuổi thơ thật đẹp biết bao. Nhưng ai cũng phải lớn lên, “tôi” và “em” không còn là những đứa trẻ: “Thế rồi xinh đẹp là em/ Em ra tỉnh học em quên một người/ Cái hôm nghỉ tết vừa rồi/ Em tôi áo chẽn em tôi quần bò”. Có gì đó như sự ngậm ngùi oán thán trước sự thay đổi của em khi lớn lên, em không còn là cô bé hồn nhiên vô tư chạy theo tôi ngày nào. Cái chất nhà quê giản dị mộc mạc ở cô bé quê khi xưa đã bị “đô thị hóa” từ cách ăn mặc đến cái sự “vô tình” hay “vô tâm” của em khi: “Gặp tôi, em hỏi hững hờ/”Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?”. Ngỡ ngàng và xa xót bởi đối với “tôi”- “em” luôn là những kí ức tươi đẹp “tôi” luôn gìn giữ nâng niu. Còn “em” dường như chẳng còn đọng lại chút gì kí ức về “tôi”, gặp lại nhau mà cứ dửng dưng như những người qua đường hỏi thăm nhau cho có.
Em hỏi, em cười, rồi em đi, để lại “tôi” với cõi hồn tan nát: “Em đi để lại chuỗi cười/ Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê”. Đây được xem là một trong những câu thơ hay nhất trong thơ lục bát Việt, hình ảnh thơ đẹp và tài hoa. Cái khoảng trời pha lê trong trẻo, tinh khiết lưu giữ hình bóng “em” được “tôi” nâng niu tôn thờ bỗng vỡ vụn trong niềm nhói buốt xót xa. “Em” đã bay theo tiếng gọi đầy cám dỗ của chốn phồn hoa đô hội. Chỉ còn lại nhân vật “tôi” bơ vơ một mình, đêm ấy, trên bờ đê, ngồi gỡ những bông cỏ may vương vấn bám dính: “Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có ai ngồi gỡ lời thề cỏ may”. Bông cỏ may nhỏ bé không hương không sắc ấy đã trở thành nhân chứng cho cuộc tình tan vỡ. Nhưng làm sao có thể trách được “em” khi cả hai chưa từng một lời hẹn ước, chỉ là “tôi” mộng mơ, tự găm lời đùa giỡn vu vơ vào trái tim mình, bấu víu vào những hi vọng mơ hồ. Lời thề là ảo nhưng nỗi đau trong “tôi” là có thật, nỗi đau của một mối tình đơn phương trẻ thơ vẫn còn vương vấn mãi trong đời để mỗi khi nhớ về lại khiến hồn người nao nao tiếc nuối.
Tứ thơ của Lời thề cỏ may không mới, mỗi khi đọc bài thơ này người đọc lập tức liên tưởng đến những vần thơ “Chân quê” của thi sĩ Nguyễn Bính. Cả hai bài thơ đều là sự hoài niệm về cái “ngày xửa ngày xưa”, là sự chua xót ngỡ ngàng hờn ghen trách móc của người con trai trước sự đổi thay của người con gái từ quê ra tỉnh. Ấy thế nhưng Phạm Công Trứ vẫn ghi được dấu ấn riêng của mình trong lòng độc giả với những vần thơ buồn buồn, man mác, dịu êm. Và hình ảnh bông cỏ may trong thơ ông trở thành biểu tượng của nỗi đau khát vọng tuổi thơ cũng là nỗi đau của mối tình đầu tan vỡ. Sở dĩ người ta yêu thích Lời thề cỏ may bởi đó là những vần thơ “thanh lọc tâm hồn” giữa vòng xoay của cuộc đời bận rộn.