Theo đó, kết quả điều tra ban đầu xác định, bà H hoạt động trên lĩnh vực đầu tư và kinh doanh bất động sản.
Bản thân bà H đã thành lập 06 doanh nghiệp để quản lý đầu tư các dự án bất động sản trên địa bàn thành phố với mục đích là để tìm cổ đông góp vốn. Tuy nhiên các dự án do bà H đầu tư đều đã hoàn thành và chuyển nhượng cho công ty khác tiếp tục thực hiện.
Vào năm 2017, qua các mối quan hệ xã hội, bà H có quen biết với bà M (trú tại Đà Nẵng). Năm 2018, bà H giới thiệu với bà M rằng mình đang sở hữu 05 lô đất trên đường Lê Đức Thọ và đang hoàn thành các thủ tục để thực hiện dự án trên các lô đất này.
Bà M tin tưởng nên trong 02 năm (2018 và 2020) đã giao số tiền trên 54 tỷ đồng để góp vốn. Tuy nhiên thực tế, tại thời điểm ký Hợp đồng góp vốn, bà H chỉ mới đặt cọc chứ chưa nhận chuyển nhượng, chưa là chủ sở hữu hợp pháp của 05 lô đất nói trên.
Bà H cũng chỉ mới thuê đơn vị tư vấn thiết kế lập hồ sơ Phương án kiến trúc dự án mà chưa thực hiện bất kỳ thủ tục nào để xin cấp phép thực hiện dự án.
Sau khi nhận tiền từ bà M, bà H hoàn thành nhận chuyển nhượng đối với 02 lô đất đường Lê Đức Thọ nhưng ngay sau đó đã chuyển nhượng cho người khác. Đối với 03 lô đất còn lại, bà H không tiếp tục thanh toán tiền mua đất theo thỏa thuận cho chủ đất dẫn đến việc đặt cọc mua bán đất cũng mất hiệu lực.
Tuy nhiên, bà H không thông báo cho bà M biết mà vẫn tiếp tục thỏa thuận các phụ lục hợp đồng với bà M góp vốn vào 03 dự án tại 05 lô đất để chiếm giữ số tiền trên 54 tỷ đồng của bà M đã góp để sử dụng vào mục đích cá nhân.
Căn cứ hồ sơ, tài liệu thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng xác định hành vi của bà H.T.T.H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Lê Lê