Gửi nắng cho em
Anh ở trong này chưa thấy mùa đông
Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ
Trời Sài Gòn xanh cao như quyến rũ
Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam.
Muốn gửi cho em một chút nắng vàng
Nghe đài báo rét kéo dài ngoài ấy
Mùa đã xong, còn chiêm xuân cày cấy
Bà con mình sẽ xoay sở ra sao ?
Anh hiểu sức vươn của những cành đào
Qua giá rét vẫn đỏ hoa ngày tết
Như cây thông vững vàng trong giá rét
Em hãy làm cây thông xanh nghe em.
Khi hai miền cùng vào một vụ chiêm
Hai vựa thóc cũng nặng tình của đất
Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất
Hơn lúc nào anh hiểu thấu lòng em.
Ở trong này anh chưa thấy mùa đông
Thương cái rét của thợ cày thợ cấy
Nên cứ muốn chia nắng đều cho ngoài ấy
Có tình thương tha thiết của trong này
Gửi nắng về sưởi ấm những bàn tay...
Bùi Văn Dung
|
Người xưa thường nói “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa), “thi trung hữu nhạc” (trong thơ có nhạc). Quả đúng là như vậy, thơ và nhạc có mối quan hệ gắn bó khăng khít, rất dễ phối hợp với nhau, bởi vì trong nhạc đã sẵn chất thơ và trong thơ đã giàu chất nhạc. Và mỗi khi một tác phẩm thơ được âm nhạc chắp cánh thì sẽ cho ra đời những ca khúc bất hủ đi cùng năm tháng. Trường hợp bài thơ “Gửi nắng cho em” của nhà thơ Bùi Văn Dung được nhạc sĩ Phạm Tuyên phổ nhạc là một minh chứng. Nhà thơ Bùi Văn Dung quê ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước 1975 anh đi bộ đội chiến đấu ở trong Nam, tháng 12-1975 anh còn đóng quân ở Sài Gòn, sắp tết nhớ vợ nhớ quê tâm hồn anh lính nông dân xứ Bắc trào lên thành một tứ thơ “Gửi nắng cho em” với những câu thơ có cánh: “Anh ở trong này chưa thấy mùa đông/ Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ...”.
Bài thơ xuất hiện trên báo Sài Gòn giải phóng vào cuối năm 1975. Người chiến sĩ - thi sĩ “Muốn gửi ra em một ít nắng vàng/ Nghe đài báo rét kéo dài ngoài ấy/ Mùa đã xong, còn chiêm xuân cày cấy/ Bà con mình sẽ xoay sở ra sao?”. Thật là trằn trọc - nỗi suy tư của một người nông dân vùng trung du miền Bắc mặc áo lính:“Khi hai miền cùng vào một vụ chiêm/ Hai vựa thóc cùng nặng tình của đất/ Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất/ Hơn lúc nào anh hiểu thấu lòng em”. Vì hiểu thấu lòng em và “Thương cái rét của thợ cày thợ cấy/ Nên cứ muốn chia nắng đều cho ngoài ấy”. Chiến tranh là chia ly, nhưng vẫn chung cuộc đời. Con người, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất cứ nơi đâu, vẫn hướng về quê nhà thao thức, ngóng trông. Tình thương - yêu rất cụ thể, không hào nhoáng, không nệ vật chất. Chia đều nắng là chia đều niềm vui, chia đều chiến thắng, cũng là chia sẻ những năm tháng “chăn đơn gối chiếc” nghiêng nỗi mỏi mòn vời vợi trong hy vọng mỏng manh. Vì, không có em, không có tình em, cũng là tình của quê hương, thì sao anh vượt qua được khói lửa chiến tranh. Một nửa thắng lợi là ở nơi quê nhà nâng đỡ; cuộc đời trọn vẹn là mỗi người phải có, nhất định phải có một nửa yêu thương: “Nhìn từ phía nào đây/ Bên lên hay bên lặn/ Hai phần nửa đời mình/ Mới thành trăng đầy đặn” (Trăng nguyên). Tứ thơ ấy chuyển hóa tư duy thơ Bùi Văn Dung và đọng lại ở một câu xuất thần trong bài “Gửi nắng cho em” và có lẽ khi đặt bút viết câu thơ: “Em hãy làm cây thông xanh nghe em”, Bùi Văn Dung không ngờ rằng ông là người đầu tiên đưa vào thi ca hình tượng đẹp của người phụ nữ Việt Nam đến đỉnh cao - cây thông, ngang với vị thế đấng quân tử, điều mà các bậc nho sĩ trước đây và thi nhân đương thời chưa hề nói tới. Dù chủ đích hay không, thì hình ảnh “em - cây thông” đã hiện lên văn bản, đã “buột” khỏi tầm kiểm soát và không còn là của riêng tác giả nữa, nó có đời sống độc lập trong lòng người yêu thơ - yêu nhạc. Vị thế “em-cây thông” không vấp phải sự chối từ, bởi người phụ nữ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã được giải phóng, có quyền tham gia và tham gia đạt hiệu quả trên mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt xuất sắc trong hoàn cảnh chiến tranh.
Ngày ấy, Sài Gòn mới giải phóng. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đến với thành phố thân yêu này. Ông hết sức xúc động khi lần đầu tiên được gặp gỡ những con người phóng khoáng, cởi mở, đặc biệt là những người chiến sĩ trẻ, quê Nam, quê Bắc đang hối hả trên đường đi làm nhiệm vụ… Từ nỗi xúc cảm ấy, nhạc sĩ đã ấn tượng ngay với bài thơ “Gửi nắng cho em” còn tươi nguyên nét mực in trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Bài thơ như một sự đồng tình, đồng điệu với tâm hồn người nghệ sĩ. Ông thấy xúc cảm trào dâng, và liền trong đêm ấy, nhạc sĩ đã thao thức phổ nhạc, trở thành bài hát “Gửi nắng cho em” nổi tiếng sau này. Và tên nhạc sĩ lần đầu gắn với tên một nhà thơ trẻ: Bùi Văn Dung, dù khi đó nhạc sĩ cũng chỉ biết đó là tên tác giả của bài thơ chứ không biết gì hơn về người đã sáng tác ra nó… Có thể nói thơ và nhạc đã hòa quyện vào nhau với một mối đồng cảm sâu sắc đã để lại cho đời những bài ca đi cùng năm tháng.
Như Mai