Tháng 3 năm 1935, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc), ngoài những Nghị quyết chỉ ra đường lối cách mạng về các mặt công tác để chuẩn bị điều kiện cho phong trào cách mạng Đông Dương bước sang một thời kỳ mới; Đại hội đã ra “Nghị quyết về Đội tự vệ”. Đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng về tổ chức, chỉ đạo xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực lượng tự vệ. Kể từ đó, ngày 28/3 trở thành ngày truyền thống của lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam. Nghị quyết về Đội tự vệ là khởi đầu của tư tưởng vũ trang toàn dân và tư tưởng chiến tranh nhân dân với phong trào toàn dân đánh giặc. Ngay sau khi có nghị quyết của Đảng, các đội tự vệ công nông mang tính chất là những tổ chức vũ trang quần chúng ra đời; đây là tiền thân của các đội Cứu quốc quân, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sau này.
Trải qua 84 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thế hệ, cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ đã hết lòng trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, sự nghiệp cách mạng của Đảng; chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm, lao động, học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo và đã lập nhiều chiến công xuất sắc; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giành những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lực lượng dân quân tự vệ xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân có hung bạo thế nào, hễ động vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, dân quân tự vệ trở thành lực lượng vũ trang của Nhà nước, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân, một công cụ chủ yếu của chính quyền cơ cở.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng dân quân tự vệ và du kích phát triển rộng khắp và ngày càng lớn mạnh. Đầu năm 1947, lực lượng dân quân tự vệ đã phát triển lên gần 3 triệu người. Trong kháng chiến chống Pháp, lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội địa phương đã tiêu diệt được hơn 23 vạn quân địch (chiếm 46,4% tổng lực lượng địch bị tiêu diệt), làm tan rã hơn 20 vạn tên và kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng địch trên toàn chiến trường.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng phòng không dân quân tự vệ miền Bắc đã tổ chức được hơn 700 phân đội, cùng với các lực lượng khác làm nên lưới lửa phòng không vô cùng lợi hại. Riêng dân quân tự vệ đã độc lập bắn rơi 424 máy bay các loại trong tổng số 4.181 máy bay Mỹ bị bắn rơi trên chiến trường miền Bắc, bắt sống hàng trăm tên giặc lái và hàng chục toán biệt kích, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch.
Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975, với phương châm giải phóng xã, huyện, tỉnh, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, lực lượng dân quân tự vệ đã cùng bộ đội chủ lực và Nhân dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng xã hội chủ nghĩa, lực lượng dân quân tự vệ tiếp tục được củng cố biên chế, tổ chức, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng huấn luyện, góp phần cùng với các lực lượng khác bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Lực lượng dân quân tự vệ đã thực sự trở thành công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền và Nhân dân ở cơ sở. Qua các thời kỳ, đã có 370 tập thể và 284 cá nhân dân quân tự vệ được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
Chấp hành Chỉ thị Trung ương Đảng, ngày 10 tháng 12 năm 1945, tại Bình Hòa Nam (Long An), Xứ ủy lâm thời Nam bộ họp hội nghị mở rộng, quyết định thành lập Khu 7, cùng các lực lượng vũ trang Nam Bộ, từ đây dân quân du kích Khu 7 đã chính thức được tổ chức chặt chẽ, trưởng thành và phát triển cho đến nay.
Hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng dân quân tự vệ được nhanh chóng phát triển rộng khắp và ngày càng lớn mạnh. Đến đầu năm 1947, lực lượng dân quân tự vệ đã phát triển lên gần 3 triệu người, ở chiến trường Nam Bộ, lực lượng dân quân du kích phát triển trên 27 vạn. Trong đó, du kích chiến đấu là 1,4 vạn. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, bằng các loại vũ khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch, lực lượng dân quân du kích đã cùng Nhân dân xây dựng làng, xã chiến đấu, dựa vào hệ thống này kiên cường bám đất, bám dân, tiêu hao lớn quân địch, phá tề, trừ gian.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng dân quân du kích ở miền Nam đã tỏ rõ khí phách anh dũng đánh địch bằng mọi hình thức, mọi phương tiện, thực hiện bám trụ kiên cường, giữ thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Đây là một phương thức tác chiến, một cách độc đáo, sáng tạo của chiến tranh du kích Việt Nam, góp phần vào thắng lợi chung giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, dân quân du kích miền Đông Nam Bộ đã phối hợp chặt chẽ với Công an Nhân dân và các lực lượng khác thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Tham gia cứu hộ, cứu nạn
Đó là mô hình chốt dân quân biên giới của các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Phước, mặc dù điều kiện làm việc, sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ còn gặp nhiều khó khăn, nhưng lực lượng dân quân chốt biên giới luôn xác định tốt tư tưởng, bám nắm địa bàn, kịp thời phát hiện, xử lý các tình huống gây mất ổn định vùng biên, gian lận thương mại, giúp Nhân dân an tâm sinh sống, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Chốt dân quân biên giới là mô hình hiệu quả trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, rất phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc xây dựng chốt dân quân là chủ trương đúng đắn được cơ quan quân sự các cấp trên địa bàn Quân khu 7 tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo thực hiện sát thực. Hoạt động ngày càng hiệu quả, chốt dân quân biên giới đã trở thành “bức tường thép” trên biên giới, là mắt xích quan trọng cùng các lực lượng giữ vững an ninh trật tự, giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến quân sự, quốc phòng. Hiện nay, trên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia qua địa bàn các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Phước có 64 chốt dân quân (trong đó có 59 chốt hiện hữu, Quân khu quyết định bổ sung 5 chốt).