Tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (South China Morning) trích dẫn các nguồn tin thân cận với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cho biết, một nhóm kỹ sư hải quân hàng đầu của Trung Quốc do Ma Weiming là kỹ sư trưởng đang nghiên cứu phát triển một mạng lưới tải điện trung thế trên tàu sân bay để cung cấp đủ năng lượng điện cho máy phóng điện từ (EMALS).
Hệ thống mới này sẽ cho phép một tàu sân bay dùng năng lượng thông thường (mà không nhất thiết phải là động cơ hạt nhân) vận hành được hệ thống máy phóng điện từ. Đây sẽ là lợi thế rất lớn so với các máy phóng sử dụng hơi nước truyền thống như tăng hiệu suất, độ chính xác và rút ngắn được chu trình khởi động máy bay.

Tàu sân bay Type- 001A mà Trung Quốc mới hạ thủy cũng áp dụng đường băng kiểu nhảy cầu, nên máy bay kích thước lớn không thế cất cánh.
Với bước đột phá này, Trung Quốc có thể trang bị máy phóng điện từ cho tàu sân bay thứ ba của mình, dự kiến sẽ ở trong phạm vi 80.000 tấn và có khả năng mang theo nhiều loại máy bay hơn.
Từ tháng 7/2016, Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đã vận hành một cặp máy phóng tại căn cứ huấn luyện Hàng Châu, bao gồm một máy phóng sử dụng hơi nước và một máy phóng điện từ. Mục đích nhằm đánh giá ưu nhược điểm cả hai hệ thống cũng như rút kinh nghiệm thực tế khi vận hành máy phóng. Hải quân Trung Quốc thực hiện các cuộc thử nghiệm bằng cách sử dụng một máy bay tiêm kích hạm J-15 Shenyang (Flying Shark) do Trung Quốc chế tạo.
Hiện nay Trung Quốc có tàu sân bay Liêu Ninh, được cải tạo và hiện đại hóa từ tàu sân bay Kuznetsov mua từ Ukraina, với mục đích nghiên cứu, thử nghiệm và huấn luyện; đồng thời học hỏi các công nghệ về tàu sân bay. Trung Quốc cũng vừa hạ thủy chiếc tàu sân bay thứ hai theo công nghệ của chiếc Liêu Ninh.
Tuy nhiên, việc cả hai tàu này đều sử dụng đường băng kiểu nhảy cầu, nên đã làm hạn chế tính năng các tàu sân bay của Hải quân Trung Quốc. Nếu không có máy phóng, thì các loại máy bay có kích thước lớn và trọng lượng nặng như máy bay cảnh báo sớm E-2 Hawkeye của Hải quân Mỹ hoặc máy bay vận tải trên tàu sân bay C-2 Greyhound không thể cất cánh được.
Ngay cả những chiếc J-15 cũng không thể mang đủ tải trọng vũ khí hoặc nhiên liệu vì đường băng tàu sân bay kiểu nhảy cầu quá ngắn, không đủ lực cất cánh nếu mang đủ tải. Do vậy việc nghiên cứu và ứng dụng máy phóng trên tàu sân bay của Trung Quốc đặt ra cấp thiết hơn bất cứ lúc nào, khi họ đang có tham vọng xây dựng Hạm đội viễn dương theo mô hình Hải quân Mỹ.
Để lấp khoảng trống khi chưa có máy phóng trên 2 chiếc tàu sân bay đầu tiên, Hải quân Trung Quốc đang phải sử dụng trực thăng vận tải Z-18 Changhe được trang bị một radar quét mảng pha điện tử đa năng để làm máy bay cảnh báo sớm trên không.
Tuy nhiên, so với máy bay cánh quạt cánh cố định như Hawkeye, máy bay trực thăng đã giảm đáng kể độ bền cũng như độ cao vận hành, thời gian hoạt động trên không cũng như độ phủ sóng của radar.
Vào tháng 3 vừa qua, tại trường Đại học Kỹ thuật Hải quân PLA tại thành phố Vũ Hán Trung Quốc, ông Ma Weiming đã phát biểu với đài truyền hình CCTV rằng: công nghệ máy phóng điện từ của Trung Quốc đã được nâng cao và đáng tin cậy hơn so với hệ thống được sử dụng trên siêu tàu sân bay Gerald R. Ford của Hải quân Mỹ, nhờ giải quyết tốt vấn đề cung cấp năng lượng điện cho các máy phóng.
Tuy nhiên, lời phát biểu của ông Ma bị giới chuyên gia quân sự nghi ngờ; bởi vì ngay cả với một cường quốc quân sự như Mỹ, thì việc lắp đặt và khai thác máy phóng điện từ trên tàu sân bay Ford ngay từ đầu đã gặp phải nhiều vấn đề trục trặc về kỹ thuật, đặc biệt là liên quan đến độ tin cậy. Hiện tại còn gây nhiều tranh cãi trái chiều trong giới chuyên gia.
Tuy nhiên không ai có thể phủ nhận lợi ích của hệ thống EMALS trên tàu sân bay Gerald R. Ford, khi sử dụng hệ thống EMALS cho phép các máy bay tiêm kích hạm chủ lực Super Hornet FA/18 và máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler mang thêm thùng nhiên liệu bên ngoài. Điều này chỉ có được khi máy bay cất cánh từ sân bay thường trên mặt đất.
Dù tuyên bố đầy tự tin về việc phát triển hệ thống máy phóng, tuy nhiên thực tế cho thấy việc phát triển và khai thác một hệ thống hết sức phức tạp như hệ thống phóng máy bay trên tàu sân bay là không thể một sớm, một chiều là làm chủ được công nghệ; vấn đề này đòi hỏi thời gian cũng như một nguồn kinh phí khổng lồ. Do vậy có thể thấy rằng, việc họ (Trung Quốc) đánh giá quá cao những tiến bộ của mình trong việc chế tạo tàu sân bay là điều không nên.
Trường Đại học Chính trị