Những chiến sĩ cách mạng kiên trung
Trong những ngày chuẩn bị rồi nổ ra Nam kỳ khởi nghĩa, tại tỉnh Thủ Dầu Một có những chiến sĩ cách mạng kiên trung đã tham gia tích cực. Người đầu tiên chúng tôi muốn nhắc đến là đồng chí Hồ Văn Cống. Những năm lao động kiếm sống ở Sài Gòn, đồng chí đã tham gia những hoạt động yêu nước tiến bộ của thanh niên thời kỳ Hội kín Nguyễn An Ninh, sau là nhóm thanh niên của Tân Việt Đảng do đồng chí Tô Trọng Mân tổ chức tại vùng Lái Thiêu. Đồng chí Hồ Văn Cống đã nhận thức vấn đề quan trọng, vì sao nhân dân ta phải lầm than khổ cực; làm sao phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người?
Tháng 8-1930, Chi bộ Cộng sản xã Bình Nhâm thành lập, đồng chí trở thành những người đảng viên đầu tiên của chi bộ này. Đồng chí cùng các đảng viên trong chi bộ tích cực vận động thành lập tổ chức Nông Hội đỏ ở một số xã và Hội Tương tế ở các lò chén, lò đường, trại mộc trên địa bàn để thu hút quần chúng lao động tham gia các cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ giành thắng lợi.
Với các hoạt động tích cực của các đảng viên Chi bộ Bình Nhâm, phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, công nhân các làng Bình Nhâm, An Sơn, An Thạnh trong những năm 1930-1936 đạt được những thắng lợi nhất định, mà đỉnh cao là cuộc bãi công của gần 1 vạn người của 30 cơ sở lò gốm vùng Lái Thiêu từ 29-9 đến 2-10-1935, đòi phải trả lương đúng số tiền đã giao khoán cho thợ nam, nữ, trẻ em, cho người Việt, người Hoa giành thắng lợi. Tháng 1-1937, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một được cấp trên công nhận chính thức và bầu đồng chí Hồ Văn Cống làm Bí thư Tỉnh ủy.
Một người có vai trò đặc biệt trong Nam kỳ khởi nghĩa là đồng chí Nguyễn Văn Tiết. Chỉ có 39 tuổi đời nhưng đồng chí đã để lại một tấm gương sáng ngời về nhân cách của người đảng viên chân chính, người lãnh đạo tài ba được nhân dân yêu mến. Khi đang học tại trường Tiểu học Thủ Dầu Một, đồng chí đã tham gia vận động các bạn học sinh bãi khóa, xuống Sài Gòn dự đám tang nhà yêu nước Phan Châu Trinh (tháng 3-1926). Sau đó, được sự giúp đỡ của thầy giáo, đồng chí được tiếp tục học ở Lái Thiêu và đậu bằng tiểu học Pháp - Việt.
Năm 1929, đồng chí Nguyễn Văn Tiết gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1930, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, thuộc lớp đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Thủ Dầu Một. Ngày 7-11-1930, đồng chí là một trong những thành viên chủ chốt tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga tại miếu Thuận Giao và trực tiếp diễn thuyết trước hàng trăm đồng bào. Ngay sau đó, đồng chí bị chính quyền thực dân bắt giam, kết án 5 năm tù, 10 năm biệt xứ và đày ra Côn Đảo.
Mãn hạn tù, đồng chí Nguyễn Văn Tiết về hoạt động tại Sài Gòn, Thủ Dầu Một và một số địa phương khác. Để che mắt địch, đồng chí đã phải làm nhiều nghề khác nhau như sửa xe đạp, làm lao công cho các trại lính Nhật... Đồng chí đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân, cho lý tưởng cách mạng của nhân dân, lý tưởng cao đẹp của Đảng.
Vang mãi tinh thần tiến công
Hòa trong khí thế hừng hực đấu tranh của cả nước, ngay từ tháng 4-1939, Bí thư Tỉnh ủy Hồ Văn Cống chủ trì hội nghị mở rộng để bàn biện pháp phát động quần chúng phía nam đấu tranh, vừa tăng cường công tác công vận ở các đồn điền phía bắc. Sau hội nghị, đồng chí cùng với Nguyễn Văn Tiết tích cực xây dựng phong trào công nhân làm chỗ dựa để phát triển lực lượng cách mạng. Nhờ bám sát phong trào, cuối năm 1939, đồng chí đã xây dựng được nhiều cơ sở quần chúng nòng cốt ở các đồn điền Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) và Quản Lợi.
Tháng 7-1940, Hội nghị Xứ ủy Nam kỳ chủ trương khởi nghĩa trên toàn Nam bộ. Thực hiện chủ trương của Xứ ủy, tỉnh Thủ Dầu Một thành lập Ban khởi nghĩa do đồng chí Hồ Văn Cống, Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban. Theo đó, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đẩy mạnh công tác tổ chức các đội vũ trang, rèn đúc và mua sắm vũ khí, luyện tập võ nghệ và quân sự, đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch…
Vào lúc 19 giờ ngày 23-11- 1940, Ban chỉ đạo khởi nghĩa của Tỉnh ủy tổ chức cuộc mít tinh tại địa điểm chùa Long Giao, ấp Bình Giao, làng Thuận Giao, quận Lái Thiêu (nay là phường Thuận Giao, TX.Thuận An). Tham gia cuộc mít tinh có hàng trăm người là cán bộ, hội viên trong các tổ chức nông dân, phụ nữ, thanh niên phản đế… Bảo vệ cuộc mít tinh có đội tự vệ bán vũ trang khoảng 10 người được trang bị 2 khẩu súng trường do binh vận mà có và gươm, giáo, gậy tầm vông… Trong cuộc mít tinh, đồng chí Nguyễn Văn Tiết, thay mặt Ban chỉ đạo khởi nghĩa kêu gọi đồng bào hãy đồng tâm hiệp lực đứng lên chống Pháp, bọn tay sai ác bá, chống chiến tranh, giành lấy quyền tự do dân chủ…
Từ sau cuộc mít tinh ở Thuận Giao, ta đồng loạt nổi dậy ở nhiều làng như Thuận Giao, An Sơn, An Thạnh… Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã lãnh đạo Đảng bộ, nhân dân 3 quận Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát nổi dậy suốt 8 ngày đêm kể từ ngày 23 đến 30-11-1940. Nhiều truyền đơn, khẩu hiệu chống chiến tranh, chống khủng bố, chống sưu cao thuế nặng dán khắp nơi.
Khi đó, giáp ranh với tỉnh Thủ Dầu Một là quận Tân Uyên thuộc tỉnh Biên Hòa và các làng thuộc xung quanh Đề-pô xe lửa Dĩ An thuộc tỉnh Gia Định, các chi bộ hướng dẫn nhân dân nổi dậy. Quận Tân Uyên, được chọn làm trọng điểm cho cuộc khởi nghĩa nên từ tháng 8-1940 đã làm công tác chuẩn bị. Phương án khởi nghĩa được xác định chủ yếu tại hai vùng, phía nam lấy thị trấn Uyên Hưng làm trọng điểm; phía bắc lấy làng Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An làm điểm hỗ trợ. Lực lượng nổi dậy bao gồm quần chúng Hội phản đế nông dân, thanh niên và đội vũ trang khoảng 35 người với vài khẩu súng trường, súng săn, giáo mác, gậy tầm vông…
Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Trên địa bàn Thủ Dầu Một, tỉnh trưởng Vôn (Wolf) đã đàn áp dữ dội những người cộng sản và yêu nước ở các làng, đồn điền cao su. Nhiều cán bộ Đảng bị bắt, hy sinh. Cơ sở bị khủng bố, phong trào cách mạng ở Nam bộ bị đàn áp khốc liệt. Đồng chí Hồ Văn Cống phải rút về Dầu Tiếng, được nhân dân đùm bọc che chở và tiếp tục hoạt động. Bọn mật thám tổ chức theo dõi, sau Tết Nguyên đán 1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, bị tòa đại hình kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo, đến năm 1943 đồng chí hy sinh. Đồng chí vẫn giữ tròn khí tiết người cộng sản...