Đại tá Lê Văn Mỹ, Chính trị viên Đội K71 cho biết: Khi mới thành lập, đơn vị gặp vô vàn khó khăn. Cán bộ, chiến sĩ ai cũng bỡ ngỡ vì chưa bao giờ làm nhiệm vụ đặc biệt này. Nói đến công tác cất bốc hài cốt, tâm lý cán bộ, chiến sĩ hết sức lo lắng, sợ sệt. Đồng thời, hầu hết đều chưa có kinh nghiệm công tác ở nước ngoài, cán bộ trải qua chiến trường Campuchia rất ít, chiến sĩ rất trẻ, tuổi mới mười tám, đôi mươi và gần như không biết, hoặc biết rất ít ngôn ngữ nước bạn. Trong khi đó, địa bàn đơn vị làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ quá rộng, trải dài từ Quân khu 2, Quân khu 4 đến Quân khu 5 của Campuchia. Đội K71 phải vượt suối, băng rừng hàng nghìn km trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, mưa nắng bất thường, đường sá khó khăn, hiểm trở… Hơn nữa, bom mìn của các cuộc chiến tranh còn để lại rất nhiều, mộ chí phân tán, địa hình hoàn toàn thay đổi, khác hẳn thời chiến tranh…
Nhưng, khó khăn đến mấy cũng không làm chùn bước những người lính quyết đi tìm đồng đội. Đến công tác tại bất kỳ phum, sóc nào, đơn vị cũng quan hệ tốt với chính quyền, gặp gỡ già làng, trưởng bản để qua đó tìm hiểu phong tục tập quán của người dân nước bạn. Đây là một điều hết sức tế nhị, nhạy cảm, nhất là đối với một dân tộc mà hầu như toàn thể nhân dân cùng theo một tín ngưỡng Phật giáo, mà đời sống tâm linh và đời sống xã hội quyện chặt vào nhau. Thấu hiểu những điều đó, đơn vị hết sức tôn trọng các vị sư sãi và rất nhiệt thành với những công việc bác ái, từ thiện. Cụ thể nhất là việc khám, chữa bệnh, cấp thuốc cho dân, tranh thủ bất cứ lúc nào rảnh là ra tay giúp dân dọn dẹp, sửa chữa nhà, trồng trọt, thu hoạch hoa màu… Nhờ vậy, đến đâu Đội K71 cũng được nhân dân Campuchia tin yêu, tạo mọi điều kiện thuận lợi về ăn ở, đi lại và nhất là hết lòng giúp đỡ, dẫn đường cho đội đến nơi chôn cất hài cốt liệt sĩ.
Đại tá Lê Văn Mỹ kể: Có rất nhiều câu chuyện cảm động giữa cán bộ, chiến sĩ của đội với nhân dân và người dẫn đường nước bạn Campuchia. Có một lần chúng tôi đến gặp một người dân bị cụt một chân, lúc đầu ông từ chối cho biết khu vực mộ liệt sĩ còn rất nhiều bom, mìn, hết sức nguy hiểm, mỗi bước đi phải lót ván, không được bước lệch dù chỉ một bước sang trái hay sang phải, nếu không ắt sẽ vướng phải mìn. Chúng tôi ra sức thuyết phục, cuối cùng ông cũng đồng ý và vui vẻ nhận lời cùng 12 cán bộ, chiến sĩ tham gia công việc. Trải qua bao vất vả, hiểm nguy, lần đó chúng tôi đã tìm được mộ 2 liệt sĩ.
Một lần khác tại phum Kamtuot, huyện Memot, tỉnh Kampong cham, sau khi đào đi, đào lại đến 12 lần mà chúng tôi vẫn không tìm thấy hài cốt liệt sĩ. Khi vào làng, chúng tôi may mắn gặp một cụ già trên 90 tuổi, già nhất trong làng nhưng tâm trí vẫn còn rất minh mẫn. Nhưng ông đang bị thương vì bị heo rừng cắn đã 3 tháng không đi lại được. Ông kể lại vụ máy bay B52 của Mỹ bỏ bom năm 1971, bộ đội Việt Nam chết nhiều, chôn trong đám đất trồng mì. Đáng tiếc là bây giờ ông đang bị thương, không thể dẫn đường cho chúng tôi được. Trong khi đường rừng ở đó rất hiểm trở, xe mô tô cũng không chạy được. Chúng tôi đề nghị dùng đòn khiêng ông đi và được ông vui vẻ gật đầu. Chúng tôi lần từng bước trên đường rừng, từ lúc đúng trưa cho đến 3 giờ chiều thì đến nơi ông chỉ bảo. Chúng tôi đã tìm được 8 hài cốt liệt sĩ ở đó.
Tâm sự với chúng tôi, Chính trị viên Đội K71, Đại tá Lê Văn Mỹ trầm ngâm: “Thật ra, những nỗi cực nhọc của những người đi tìm hài cốt có thấm gì với sự hy sinh cao cả của liệt sĩ và nhất là đối với sự đau đớn, nhớ thương của những gia đình có người thân vĩnh viễn ra đi mà không đưa được nắm xương tàn về lại cố hương. Chúng tôi hiểu như thế, nên hết đợt này đến đợt khác, lúc nào anh em cũng hăm hở ra đi cho đến bao giờ không còn mộ liệt sĩ nào cô đơn, lạnh lẽo nơi đất khách quê người...”