Cộng tác viên
Năm 1981, tôi đang dạy học ở Trường Sĩ quan Chính trị thì nhận được quyết định chuyển về Quân khu 7. Bấy giờ, ngành lịch sử quân sự trong toàn quân mới thành lập. Nhu cầu tổng kết chiến tranh, biên soạn lịch sử quân sự đặt ra rất lớn, đặc biệt ở các Quân khu và các tỉnh phía Nam. Phòng Lịch sử quân sự Quân khu 7 thành lập năm 1980 toàn sĩ quan lớn tuổi từ các chiến trường tụ về và một số anh từ Báo Quân giải phóng chuyển qua, chưa ai được đào tạo cơ bản về khoa học lịch sử. Vào Trạm khách Quân khu 7 nộp giấy chờ, không hiểu Cục Chính trị sắp xếp thế nào tôi lại nhận được quyết định về công tác tại Bảo tàng Quân khu, ở số 710/7 Nguyễn Kiệm. Bảo tàng trực thuộc Cục Chính trị. Vậy là hàng tháng, tôi phải vào Cục Chính trị để nhận gạo, thực phẩm, và học tập chính trị, họp hành Đoàn thanh niên. Ở Bảo tàng được mấy tháng, tôi nhận được quyết định chuyển về Phòng Lịch sử quân sự.
Lân la chờ họp ở hội trường Cục, vào Phòng Tuyên huấn tôi mới biết có tờ Báo Quân khu 7. Tiếp tôi là anh Mai Bá Thiện, Phó Tổng biên tập. Tôi rụt rè: “Em viết bài được không?”. Anh Thiện cười: “Cậu ở đâu? Bảo tàng hả. Viết được chớ, viết được gì thì gửi vào đây”. Tôi về viết bài gửi và trở thành cộng tác viên của Báo Quân khu 7 như thế.
Trong số các anh lãnh đạo tòa soạn, tôi chơi thân nhất với Trần Thế Tuyển. Chúng tôi biết nhau khi mới thiếu úy, trung úy. Tôi viết bài giới thiệu truyện ngắn của Tuyển, đi nói chuyện về thơ của anh. Kế đến là Phan Thanh Viếng. Anh về tòa soạn khi Báo đã chuyển xuống Tờ tin. Không khí trong phòng hiu hắt. Tôi không ngãng ra mà vẫn ở bên anh, đàn đúm bạn bè. Với anh em phóng viên, tôi kết thân với hai anh Phạm Văn Mấy và Mai Xuân Thọ.
Phó Thư ký chi hội
Cuối năm 1986, Báo Quân khu 7 tổ chức Đại hội Chi hội báo. Anh Trần Thế Tuyển được bầu làm Chi hội trưởng. Anh Mai Bá Thiện giới thiệu tôi làm Chi hội phó.
Trong thời gian ngắn ngủi “giữ chức” Phó thư ký Chi hội, tôi làm được hai việc. Một là liên hệ với Công ty cao su Đồng Nai xin anh Lê Hanh chuyển ngành về văn phòng Đảng ủy phụ trách tờ tin của công ty. Hai là liên hệ cho anh em trong tòa soạn đi thực tế một chuyến ở Nông trường cao su Xà Bang.
Trong những năm 1987, 1988, tình hình đất nước dù đã có đổi mới vẫn còn rất nhiều khó khăn. Lực lượng Quân đội quá lớn vượt xa khả năng đảm bảo của nền kinh tế. Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh chỉ thị giảm đến 60% quân số thường trực. Ngành lịch sử của tôi giải thể luôn Phân viện lịch sử quân sự gần cả trăm con người. Các Báo Quân khu cũng giải thể, chỉ duy trì tờ tin nội bộ. Nhu cầu tổ chức lại lực lượng là tất yếu, nhưng sự ra đi của từng số phận thì không khỏi ngậm buồn.
Báo Quân khu 7 chuẩn bị giải thể. Anh Trần Thế Tuyển được bác Phạm Đình Trọng ở Báo Quân đội xin về. Các anh Mai Bá Thiện, Vũ Ngọc Xiêm, Phạm Sĩ Sáu, Trần Hùng, Mai Xuân Thọ đều đã có vị trí chuẩn bị hạ cánh. Riêng anh Lê Hanh thì chưa. Anh Thiện bảo tôi: “Cậu quen nhiều, có nơi nào xin cho Hanh về”. Tôi dẫn Hanh lên gặp anh Trần Văn Thịnh, Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy Công ty cao su Đồng Nai. Sau có thêm thư tay của Thiếu tướng Trần Đình Cửu, Ông Bảy Trân Bí thư Đảng ủy Công ty cao su Đồng Nai đồng ý nhận.
Có lẽ đó là lần “chung đụng” cuối của tôi với các anh ở tòa soạn Báo Quân khu 7. Sau lần ấy, các anh Trần Thế Tuyển, Mai Bá Thiện, Vũ Ngọc Xiêm, Phạm Sĩ Sáu, Trần Hùng, Mai Xuân Thọ, Phạm Văn Mấy lần lượt chuyển đi. Tôi hết vai trò Phó thư ký Chi hội, chuyên tâm nghề viết sử.
Sau này, Báo Quân khu 7 được thành lập trở lại. Những người mới được đào tạo bài bản hơn, có học lực và tri thức nghề nghiệp. Thời bùng nổ thông tin đa phương tiện, các anh ở vào thế cạnh tranh gay gắt hơn, phải phát triển quy mô và mở rộng hình thức thông tin ra nhiều lĩnh vực. Do công việc bù đầu, tôi ít sang tòa soạn, chỉ thỉnh thoảng ghé vào khi có việc. Đến khi nghỉ hưu, tôi vẫn là cộng tác viên của Báo. Các anh trong Ban biên tập vẫn đề nghị tôi viết bài này bài kia, và không quên gửi về nhà riêng cho tôi báo mỗi số một tờ.
Dù vậy, hàm lượng kỷ niệm về Báo Quân khu 7 trong tôi đậm đặc nhất vẫn là thời tôi vừa kể.