Chúng tôi có mặt tại Khu tưởng niệm các liệt sĩ dân công hỏa tuyến xã Vĩnh Lộc A năm Mậu Thân 1968 đúng lúc các em học sinh Trường Tiểu học Vĩnh Lộc 2 (huyện Bình Chánh) vừa làm lễ kết nạp Đội. Tham quan di tích, các em được nghe giới thiệu về lịch sử đền thờ và sự kiện xảy ra trong đêm bi tráng gần 50 năm trước. Câu chuyện được tái hiện qua lời kể rành rọt của bà Phạm Thị Ôi, Phó ban quản lý di tích, nguyên nữ giao liên Vĩnh Lộc năm xưa:
- Đêm 15-6-1968, đoàn dân công của xã gồm 55 người, có nhiệm vụ chuyển 2 thương binh thuộc Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) đang nằm đợi dưới thuyền về hậu phương Bình Thủy, huyện Đức Hòa (Long An), rồi tải đạn về điểm tập kết tiếp tế cho chiến trường Sài Gòn. Sau khi tập trung sinh hoạt nghe quán triệt nhiệm vụ, 20 giờ cả đoàn bắt đầu khởi hành, đi thành hàng dọc, lặng lẽ men theo bờ kênh, băng qua cánh đồng mênh mông nước. Khoảng 22 giờ 30 phút, đoàn đi đến góc bưng của kênh Láng Cát (ấp 4, xã Vĩnh Lộc A ngày nay) thì bất ngờ phát hiện địch rọi đèn pha sáng rực cả một vùng. Hai chiếc máy bay chầm chậm soi dọc tuyến kênh. Cô du kích dẫn đường hô: “Tấp vào bụi dứa”. Các dân công người chạy vào bụi dứa, người nằm nép bờ kênh, ôm nhau, không nhúc nhích. Thế nhưng…, bùn lầy, sức người chạy sao kịp máy bay! Chỉ trong chốc lát, chúng phát hiện 2 chiếc ghe ở dưới dòng kênh và màu nước đục ngàu, gợn sóng nên rà sát ngọn dứa, điên cuồng nhả đạn. Hai chiếc ghe vỡ nát. Từng dòng nước bắn lên, đỏ ngàu, tung tóe. Chúng hạ độ cao, quét từng gốc dứa. Chị em nhoài người che chở cho nhau, kéo tay nhau nép sâu hơn nữa. Nhưng những cây dứa dại mong manh không đủ sức chở che cho những dân công Vĩnh Lộc… Những tiếng “ự”, những tiếng rên khe khẽ tăng dần sau mỗi loạt đạn quân thù từ trên máy bay nã xuống…
- Trong lúc máy bay địch bắn như vãi đạn, không một vật che đỡ, chỉ có mấy bụi dứa dại ẩn mình, chị em vẫn nhường nhau trú nép, sẵn sàng nhận bất lợi về mình. Tôi cùng mấy người lăn xuống dòng kênh, cố gắng lặn thật sâu nhưng ngạt hơi, uống đầy bụng nước đành phải nhô lên hít thở. Trong khoảnh khắc ấy, xen lẫn tiếng đạn rát tai, chát chúa, tôi nghe có tiếng hô: “Chạy tản ra”. Mấy bóng người lao lên phía trước. Đạn địch bắn dượt theo sau, nhiều người ngã quỵ. Cố hết sức mình, tôi nhao lên, vụt chạy, rồi lại nằm xuống, bò, trườn mỗi khi ánh đèn địch quét tới… Cứ thế, tôi bò dọc bờ kênh sình lầy cho tới khi thoát khỏi “tọa độ chết”, thông báo cho dân làng đến cứu nguy cho đồng đội.
Trong giờ phút sinh tử đó, mỗi nhân chứng khắc ghi một chi tiết không thể nào quên. Với nữ dân công Phạm Thị Tám, 73 tuổi, lời trăng trối của người bạn trước lúc lâm chung như một động lực khơi dậy ý chí sinh tồn. Bà Tám hồi tưởng:
- Đạn roc-ket của địch bắn dữ quá! Tôi và Huỳnh Thị Điệp nằm gần nhau bên bụi dứa. Một loạt đạn nổ ngay cạnh. Đang nằm nín thở, tôi thấy nhói ở vai, rồi nghe tiếng Điệp thều thào: “Tao bị trúng đạn rồi, Tám ơi. Mày còn sống… thì nhớ nói má tao… nuôi giùm con tao”. Tiếng Điệp lịm dần. Chị đã vĩnh viễn ra đi để lại người mẹ già và đứa con thơ chưa đầy 5 tuổi. Lời ủy thác ấy thôi thúc tôi lấy hết can đảm, ôm vết thương lao khỏi bụi dứa, vượt qua bờ kênh, chạy thục mạng đến khi kiệt sức. Tỉnh dậy tôi mới biết mình còn sống.
Chỉ trong vòng chưa đầy một giờ bị máy bay địch oanh kích, Vĩnh Lộc đã mất đi 32 người con, trong đó có 25 nữ. Họ đều còn rất trẻ, tuổi đời trên dưới đôi mươi. Trong tay họ không có một tấc sắt, chỉ có chiếc khăn và trái tim rực lửa… Người dân Vĩnh Lộc xót xa gọi đó là “Đêm trắng” đau thương.
Vĩnh Lộc sau “đêm trắng”, không khí thê lương, căng thẳng bao phủ khắp làng. Bọn địch tiếp tục khủng bố, lùng sục tìm bắt những người bị thương. Chúng dụ dỗ chiêu hồi, đe nẹt, cấm không cho thân nhân lấy thi thể những người đã mất. Bất chấp sự ngăn cản của quân thù, bà con vẫn tràn ra đồng tìm kiếm, đưa thi thể những người đã khuất về chôn cất trong làng. Riêng thi thể của nữ dân công Phan Thị Để mãi gần 2 ngày sau mới tìm thấy. Chị bị vùi trong đống đất của đồng bưng, chỉ nhô ra ngoài một bàn chân. Bà Lê Thị Khuynh, người trực tiếp tìm kiếm, cứu chữa các nạn nhân, kể:
- Thi thể chị em nằm chồng lên nhau, nhiều người vẫn còn nắm chặt tay đồng đội; mái tóc dài xõa xuống dòng kênh nhuộm máu. Những người bị thương được bí mật đưa về nhà tôi chữa trị… Nhìn đồng đội, bạn bè nằm đó tôi thấy tim mình nhỏ máu. Tối hôm xảy ra thảm cảnh, tôi được phân công ở nhà chuẩn bị sẵn cơm nắm đợi chị em về. Nào ngờ…, nhiều người chẳng bao giờ trở lại.
Trong số 55 dân công chỉ còn 23 người sống sót. Dù trở về sau mất mát, hy sinh quá lớn nhưng họ vẫn không hề nhụt chí, vẫn kiên cường tham gia cách mạng. Hơn ai hết, họ thấm thía giá trị của sự hy sinh và càng thêm căm thù giặc sâu sắc. Bà Phạm Thị Tám bị thương trong đêm ấy, khi đang điều trị tại trạm quân y vùng giải phóng được ít ngày thì nhận hung tin, chồng bà là Huỳnh Văn Vân đã anh dũng hy sinh; nhà bà bị địch đốt phá, cày nát để tìm hầm bí mật. Vội vã trở về nhà, nhận lại đứa con thơ được hàng xóm cưu mang, mẹ con bà trốn đi lánh nạn, rồi ngụy trang thành người bán cá tiếp tục hoạt động, làm giao liên cho cách mạng đến ngày toàn thắng. Bà ba Lập, mặc dù sống trong ấp chiến lược, bị địch bắt, tra tấn nhiều lần chết đi sống lại nhưng vẫn một lòng kiên trung với Đảng, nuôi giấu bộ đội, tiếp cơm, tải đạn, đắp đường... Sau ngày giải phóng, bà Lập nhận một cô bé làm con nuôi nhưng hoàn cảnh gia đình éo le, nghèo khó bà phải thuê nhà để ở. Mãi gần đây, bà mới được địa phương xây tặng một căn nhà tình thương. Hay, bà Nguyễn Thị Ôi, năm đó mới 19 tuổi. Hai người anh đều đã hy sinh nhưng bà không hề thoái chí, vẫn dũng cảm làm giao liên cho các đơn vị bộ đội địa phương Tân Phú và Sư đoàn 9, trở thành đảng viên, tích cực hoạt động cống hiến cho quê hương, đất nước… Chính họ đã góp phần viết nên bản hùng ca dân công hỏa tuyến, vun đắp truyền thống Bình Chánh anh hùng.

Nơi tri ân, giáo dục truyền thống
Ít lâu sau “đêm trắng’, một ngôi miếu nhỏ chừng 3m2 được dựng lên. Ngôi miếu do bố của liệt sĩ Phan Thị Vân dựng ngay tại bờ dứa, nơi con gái ông hy sinh, trở thành địa điểm thờ tự chung của các liệt sĩ. Gần 30 năm sau, vào một ngày đầu năm 1996, ông Nguyễn Văn Mão, cán bộ hưu trí chiến khu D, chồng bà Phạm Thị Ôi đã vận động tổ chức giỗ chung cho các liệt sĩ với quy mô lớn. Cũng trong năm đó, bà con nhân dân tự nguyện đóng góp và vận động các nhà hảo tâm tài trợ xây khu tưởng niệm đàng hoàng hơn trên nền miếu cũ. Đến năm 2005, khu tưởng niệm đã được UBND thành phố Hồ Chí Minh công nhận di tích lịch sử cấp thành phố và đầu tư xây dựng, tôn tạo thành khu di tích lịch sử với tổng diện tích gần 10.000m2 làm nơi hương khói, thờ tự, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, năm 2010, tập thể 32 liệt sĩ đã được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Bà Phạm Thị Ôi cho biết:
- Hằng năm, vào dịp lễ, Tết, ngày giỗ của 32 liệt sĩ, các đoàn khách đến thăm viếng khá đông, nhất là học sinh các trường trên địa bàn TP Hồ Chí Minh thường đến dâng hương, tổ chức cắm trại, kết nạp Đoàn, Đội. Năm nay, kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hoạt động giáo dục truyền thống, tri ân các liệt sĩ được các địa phương, trường học tổ chức chặt chẽ với sự tham gia của đông đảo học sinh, sinh viên, cựu chiến binh và nhân dân thành phố. Dù vất vả nhưng chúng tôi rất vui vì đây chính là những hoạt động thiết thực bồi đắp lòng yêu nước cho thế hệ hôm nay.
Sự hy sinh của những dân công Vĩnh Lộc chân trần, chí thép là biểu tượng ngời sáng về tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. “Khu di tích như một minh chứng cho sự xả thân vì Tổ quốc của các chàng trai, cô gái vùng ven Sài Gòn buông tay cuốc, vác hòm đạn phục vụ chiến trường. Họ đã không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, vững tin vào thắng lợi. Bởi vậy, đã nhiều năm nay thầy, trò chúng tôi chọn nơi đây là địa điểm sinh hoạt truyền thống, bồi đắp tình cảm và những giá trị lịch sử cho lớp lớp thế hệ học sinh” – Thầy Nguyễn Văn Hiệp, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Vĩnh Lộc 2 bộc bạch.