
Thủ tướng Vương quốc Campuchia Xăm Đech Hun Sen và Thiếu tướng Phùng Đình Ấm trong buổi lễ trao tặng Huân chương Tự do.
Với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ, Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, ra sức đánh phá cách mạng miền Nam, giết hại những người kháng chiến cũ và nhân dân yêu nước. Trước tình hình đó, để sự chi viện có hiệu quả, một trong những nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ là mở con đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, thông suốt từ Trung ương đến chiến trường Nam Bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho miền Nam tiếp thu sự chi viện nhân tài, vật lực của miền Bắc. Được sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 559 (sau này là Bộ đội Trường Sơn) để đảm đương nhiệm vụ mở tuyến đường hành lang vận tải 559 (sau này là đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh). Nhưng con đường Trường Sơn lúc đầu chỉ lưu thông từ vĩ tuyến 17 vào đến Tây Nguyên, còn đoạn từ Nam Tây Nguyên vào đến Đông Nam Bộ lúc bấy giờ vẫn còn bị chia cắt bởi một vùng trắng, chưa có cơ sở cách mạng trong quần chúng dân tộc, được Mỹ - ngụy coi là vùng bất khả xâm phạm của chúng.
Thủ tướng Vương quốc Campuchia Xăm Đech Hun Sen và Thiếu tướng Phùng Đình Ấm trong buổi lễ trao tặng Huân chương Tự do.
Ngày 25-5-1959, Bộ Quốc phòng và Ban Thống nhất Trung ương đã quyết định thành lập Đoàn B90, gồm 25 đồng chí cán bộ người Kinh - Thượng, ở khu vực Nam Bộ và Liên khu 5 tập kết, do đồng chí Trần Quang Sang làm Trưởng đoàn, các đồng chí Phùng Đình Ấm và Phạm Văn Lạc làm Đoàn phó. Đoàn B90 có nhiệm vụ về miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đắk Lắk xây dựng cơ sở vùng Nam Tây Nguyên, xóa vùng trắng của địch và mở đường vào Đông Nam Bộ.
Ngày 20-6-1959, đồng chí Phùng Đình Ấm cùng với cán bộ, chiến sĩ Đoàn B90 lên đường hành quân về miền Nam. Sau 4 tháng hành quân dọc Trường Sơn vào đến Nam Tây Nguyên, hợp nhất Đoàn Vũ trang Nam Đắk Lắk và đặt dưới sự lãnh đạo chung của Ban Cán sự B4 (Đắk Lắk), Đoàn B90 bắt đầu triển khai công tác. Từ tháng 12-1959 đến tháng 12-1960, đồng chí là Đội trưởng Đội vũ trang tuyên truyền mở đường liên lạc nối liền Nam Bộ và Liên khu 5 (thuộc tỉnh Quảng Đức).
Tháng 6-1960, Khu ủy miền Đông Nam Bộ giao nhiệm vụ cho Đoàn C200 từ Chiến khu Mã Đà, vừa xây dựng cơ sở vừa mở đường ra, tìm bắt liên lạc với cánh mở đường phía Đông của B90. Trước đó, Đoàn C300 được lệnh mở đường lên phía Tây quốc lộ 14, móc nối liên lạc với cánh mở đường phía Tây B90. Sau đó giao lại nhiệm vụ cho C270 của tỉnh Phước Long tiếp tục.
Sau gần một năm thực hiện nhiệm vụ, đồng chí Phùng Đình Ấm và cán bộ, chiến sĩ Đoàn B90 đã vượt qua biết bao khó khăn ở chiến trường mới lạ, không cơ sở trong dân, ngôn ngữ bất đồng, đói cơm lạt muối, địch ra sức kiểm soát buôn làng, biệt kích lùng sục, ngăn cản, treo giải thưởng cao cho người nào, buôn nào giết chết hoặc bắt sống Việt cộng. Khắc phục mọi khó khăn, trở ngại, kiên trì vận động, bám sát dân, liên lạc từng người, xây dựng từng cơ sở, dần mở rộng ra toàn vùng, xây dựng bàn đạp và từng bước mở đường tìm bắt liên lạc với nhau.
Đến 16 giờ 30 phút ngày 30-10-1960, cánh mở đường phía Đông của B90 bắt được liên lạc với bộ phận C200 tại vàm sông Đah R’Tih (giáp ranh Quảng Đức) và lúc 20 giờ ngày 4-11-1960, cánh mở đường phía Tây của B90 bắt được liên lạc với một bộ phận của C270 tại kilômét 4 đường Đắk Song - Gia Nghĩa. Nhiệm vụ được giao soi mở đường của đơn vị đồng chí Phùng Đình Ấm đã hoàn thành xuất sắc. Từ đó, con đường hành lang cuối dãy Trường Sơn được khai thông, nối liền hai chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tiếp sau đó, con đường được nối liền với cực Nam Trung Bộ. Đường hành lang chiến lược Bắc - Nam - đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh được thông suốt từ Trung ương về đến chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Qua đoạn đường này, nhân dân Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã đón hàng vạn con em tập kết về lại chiến trường cùng nhiều đơn vị cán bộ, chiến sĩ miền Bắc, hàng trăm tấn vũ khí, vật chất chi viện, phục vụ cho cuộc chiến đấu.
Từ tháng 12-1960 đến tháng 8-1961, đồng chí là Đội trưởng Đội vũ trang xây dựng huyện Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức. Từ tháng 8-1961 đến tháng 7-1964, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng các ban Tuyên huấn, Tổ chức, Dân vận của tỉnh Phước Long. Từ tháng 7-1964 đến tháng 11-1968, đồng chí là Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Đức. Từ tháng 12-1968 đến tháng 4-1970, đồng chí là Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 10, phụ trách Chính ủy Tiền phương Quân khu 10.
Từ tháng 5-1970 đến tháng 3-1972, đồng chí là Trưởng ban Liên lạc giúp bạn Campuchia ở tỉnh Mônđônkiri. Từ tháng 3-1972 đến tháng 4-1974, đồng chí về nước đảm nhiệm các chức vụ: Phó phòng Tuyên huấn Cục Chính trị Miền, phụ trách Khối báo chí, văn nghệ, điện ảnh. Từ tháng 4-1974, đồng chí là Phó phòng Dân vận Miền cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975).
Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Phó phòng Tuyên huấn Cục Chính trị Quân khu 7. Từ tháng 1 đến tháng 3-1978, đồng chí được biệt phái sang Ban Kinh tế mới Thành phố Hồ Chí Minh, làm Trưởng ban xây dựng vùng kinh tế mới Thành phố Hồ Chí Minh ở Lâm Đồng. Từ tháng 4 đến tháng 8-1978, đồng chí là Trưởng phòng Địch vận Cục Chính trị Quân khu 7, phụ trách Ban Công tác K, trực tiếp giúp bạn Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Từ tháng 9 đến tháng 12-1978, đồng chí là Chính ủy Đoàn 778 giúp Campuchia xây dựng lực lượng. Từ tháng 1-1979 đến tháng 10-1981, đồng chí là Trưởng ban công tác K Quân khu 7. Trên các cương vị Trưởng ban công tác K Quân khu 7, Chính ủy Đoàn 778, đồng chí đã khẩn trương triển khai nhiệm vụ giúp bạn tuyển quân, xây dựng lực lượng, giúp bạn đào tạo cán bộ và tổ chức huấn luyện được 21 tiểu đoàn.
Khi đang công tác, đồng chí bị bệnh đột ngột nên đi lại khó khăn. Sau một thời gian điều trị, mặc dù sức khỏe còn yếu, đồng chí vẫn chấp hành sự phân công của tổ chức, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao tại Campuchia. Đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Phó Tư lệnh Mặt trận 779, Phó Tư lệnh Mặt trận 479, Chuyên gia Chính trị viên khu vực 4 (Quân khu 7) Campuchia. Tháng 12-1985, đồng chí được thăng quân hàm Thiếu tướng. Từ tháng 18-1987 đến tháng 6-1988, đồng chí là phái viên của Bộ Quốc phòng Việt Nam tại Campuchia. Từ tháng 6-1988 đến tháng 12-1989, đồng chí là Trưởng đoàn K88. Từ tháng 12-1989 đến tháng 5-1992, đồng chí làm Phó Đoàn trưởng về Chính trị Đoàn Chuyên gia quân sự Trung ương tại Campuchia, Chuyên gia Tổng cục Chính trị tại Campuchia. Trên các cương vị được giao, đồng chí nhạy bén nắm bắt tình hình, đề xuất kịp thời với cấp trên phương hướng, biện pháp giúp lực lượng cách mạng nước bạn truy quét quân Pôn Pốt và xây dựng đất nước. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia trở về nước, Thiếu tướng Phùng Đình Ấm tiếp tục công tác tại Quân khu 7 đến năm 1994 nghỉ hưu.
Ngày 16-2-2011, đồng chí qua đời ở tuổi 82. Từ cậu bé mồ côi cha từ nhỏ, ở nhờ nhà cậu mợ, chú, bác, làm thuê, làm mướn cực nhọc, ít được học hành, nhưng với tư chất thông minh, cần cù, đồng chí tự nghiên cứu, học tập vươn lên, trở thành tướng lĩnh cao cấp trong Quân đội. Hơn 50 năm trong quân ngũ, đồng chí đã chiến đấu trên các chiến trường Khu 5, Đông Bắc Campuchia, chỉ huy Đoàn B90 xoi mở đường Hồ Chí Minh từ Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia…. Ở cương vị công tác nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Phần lớn cuộc đời hoạt động cách mạng của Thiếu tướng Phùng Đình Ấm gắn liền với công tác vận động quần chúng ở vùng đồng bào dân tộc Nam Tây Nguyên và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia. Đồng chí đã cà răng, đóng khố, cùng sống và làm việc với đồng bào dân tộc thiểu số. Là người thông minh, ham học hỏi nên chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phùng Đình Ấm đã biết nói, biết đọc tiếng M’Nông, tiếng Khơme, tiếng Lào... Nhờ thông thạo nhiều thứ tiếng đã giúp đồng chí thực hiện công tác dân vận rất tốt và được nhân dân tin yêu, đùm bọc. Cũng chính những kinh nghiệm làm công tác vận động quần chúng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã giúp đồng chí Phùng Đình Ấm nắm bắt kịp tình hình nhiệm vụ, đề xuất với cấp trên về phương hướng, biện pháp giúp lực lượng cách mạng chân chính của Campuchia đánh đổ bọn diệt chủng Pôn Pốt, xây dựng đất nước.
Là một cán bộ chính trị trưởng thành trong chiến đấu, đồng chí Phùng Đình Ấm hiểu sâu sắc những giá trị về giáo dục truyền thống trong Quân đội, nên những năm tháng nghỉ hưu, đồng chí tích cực tham gia công tác giáo dục truyền thống, biên soạn lịch sử các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu 7. Đồng chí đề xuất với các đồng đội của Đoàn B90, thành lập Ban Liên lạc truyền thống B90 và C200, trực tiếp sưu tầm tư liệu, viết thư gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng trình bày mục đích, ý nghĩa và kế hoạch biên soạn cuốn lịch sử Đường Hồ Chí Minh đoạn Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ. Từ đó, Ban Bí thư Trung ương đã chỉ đạo Tổng cục Chính trị, Quân khu 7, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Đường Hồ Chí Minh đoạn Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ” nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Bộ đội Trường Sơn. Ngoài là một cộng tác viên tích cực của Báo Quân đội nhân dân, đồng chí Phùng Đình Ấm còn đam mê viết sách và trực tiếp biên soạn, xuất bản nhiều cuốn sách, hồi ký, truyện ký như: “Người đi thắp sáng quê hương”; “Một thời để nhớ”; “Mở Đường Hồ Chí Minh đoạn từ Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ”; “Mặt trận 479 trên đất nước Angkor”; “Lịch sử Quân khu 10 trong kháng chiến chống Mỹ”; “Ba lần gắn bó với đất nước Chùa Tháp”; “Dưới chân núi Ninh Nam, Kôông và Keng”… Những tác phẩm của đồng chí Phùng Đình Ấm giúp cho người đọc cảm nhận được những năm tháng kháng chiến oai hùng của dân tộc, những kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trong quá trình hoạt động cách mạng và công tác, đồng chí Phùng Đình Ấm đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: 3 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba; 2 Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Nhất do Chính phủ Lào tặng; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất do Nhà nước Campuchia tặng, Huy chương Vì nghĩa vụ quốc tế…