
Thiếu tướng Nguyễn Văn Răng
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, cha là giáo viên và là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, ngay từ nhỏ Nguyễn Văn Răng đã được nghe cha giảng dạy những vấn đề về cách mạng và đấu tranh cách mạng. Từ truyền thống quê hương và gia đình, năm 1945, Cách mạng tháng Tám bùng nổ, đồng chí Nguyễn Văn Răng khi ấy mới 15 tuổi, là đội viên Đội thiếu niên xã Hậu Thành đã tham gia giành chính quyền ở địa phương. Tháng 10-1950, đồng chí lên đường nhập ngũ, là chiến sĩ liên lạc của Đại đội 2, rồi Đại đội 6 tỉnh Mỹ Tho. Từ năm 1952 đến năm 1954, đồng chí làm Thư ký và sau đó là Trưởng Văn phòng Đại đội 938, Tiểu đoàn 309.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đồng chí tập kết ra miền Bắc, là chiến sĩ, rồi Tiểu đội phó Đại đội 13, Trung đoàn 568, Sư đoàn 330. Từ năm 1957 đến năm 1959, đồng chí là học viên của Trường Sĩ quan Pháo binh và được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam (1959). Hoàn thành khóa học, đồng chí về nhận nhiệm vụ Trợ lý Pháo binh Trung đoàn 556, Sư đoàn 330 (1959-1961). Năm 1961, đồng chí chuyển sang làm giáo viên Ban Pháo binh, Sư đoàn 338. Đến cuối năm 1961, đồng chí trở lại chiến trường miền Nam, là Trợ lý Ban Pháo binh Miền. Từ tháng 10-1962 đến tháng 12-1965, đồng chí là Đại đội trưởng và giáo viên Trường Pháo binh Miền. Từ năm 1965 đến năm 1967, đồng chí là Trợ lý Tác chiến Phòng Tham mưu, Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 52, Đoàn Pháo binh Miền.
Những năm từ 1968 đến 1970, đồng chí trải qua các chức vụ: Tiểu đoàn phó, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Tham mưu phó Trung đoàn 208, Đoàn Pháo binh Miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, Trung đoàn pháo binh 208 được giao nhiệm vụ cùng Sư đoàn bộ binh 9 tập kích căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, trại Cổ Loa, Dinh Độc Lập và sẵn sàng thọc sâu theo hướng Tây Nam Sài Gòn. Với cương vị Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 208, đồng chí Nguyễn Văn Răng tham gia chỉ huy đơn vị bắn vào căn cứ Đồng Dù. Trước tình hình bộ binh không khống chế được hỏa lực địch, máy bay địch đến oanh tạc trận địa, đồng chí đã lệnh cho từng khẩu đội, trung đội linh hoạt cơ động pháo lên phía trước, nhanh chóng lắp đặt thiết bị, tiếp tục chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Sở chỉ huy tiền phương Miền.
Tháng 5-1970, đồng chí được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Trung đoàn 211, Đoàn 75 pháo binh Miền. Từ tháng 12-1970 đến năm 1972, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 96, Đoàn 75 pháo binh Miền. Những năm từ 1972 đến 1973, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ từ Trung đoàn phó đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Đoàn 75 pháo binh Miền. Tháng 12-1973, đồng chí được cử đi học tại Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng). Kết thúc khóa học, năm 1976, đồng chí về nhận nhiệm vụ Trợ lý, rồi Phó phòng Tác chiến, Quân khu 7. Năm 1979, để bảo vệ biên giới Tây Nam và thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia. Mặt trận 479 cùng các lực lượng giúp bạn được thành lập, đồng chí Nguyễn Văn Răng đảm nhiệm chức vụ Tham mưu phó kiêm Trưởng phòng Tác chiến Mặt trận 479. Khoảng thời gian những năm từ 1979 đến 1984, đồng chí Nguyễn Văn Răng đã thực hiện tốt vai trò tham mưu cho Bộ Tư lệnh Mặt trận 479 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trên địa bàn các tỉnh: Báttambang, Xiêm Riệp, Ốtđamiêngchay và Pailin. Mặt trận cùng với bạn đã chiến đấu truy quét địch, giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng vững mạnh, tự đảm đương được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, ổn định đất nước.
Sang năm 1985, đồng chí Nguyễn Văn Răng về nước, đảm nhiệm chức vụ Phó Chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 10-1989, đồng chí được bổ nhiệm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh, đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX và được thăng quân hàm Thiếu tướng. Với cương vị Chỉ huy trưởng trên một địa bàn nóng bỏng, trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước, Thiếu tướng đã lãnh đạo lực lượng vũ trang Thành phố luôn quán triệt tình hình thực tế, bám sát đường lối, yêu cầu nhiệm vụ; nhìn thẳng vào sự thật, rút kinh nghiệm từ những bài học không thành công đã qua để tránh những sai lầm, trì trệ, chủ quan trong quá trình tiếp thu cái mới, từ đó xây dựng quyết tâm và chương trình hành động. Lực lượng vũ trang Thành phố được bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng được đặt lên hàng đầu, đáp ứng vai trò, yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống; xây dựng hậu phương quân đội gắn bó với dân, hòa nhập với các phong trào của Thành phố; đời sống cán bộ, chiến sĩ tại ngũ, lực lượng dân quân tự vệ, các đối tượng chính sách được quan tâm hỗ trợ…
Năm 1995, Thiếu tướng Nguyễn Văn Răng được nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi nghỉ hưu, đồng chí vẫn tích cực tham gia các công tác xã hội ở địa phương, là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, Hội Nạn nhân chất độc da cam Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, Thiếu tướng là Chủ tịch Hội. Thiếu tướng cũng thường xuyên tham gia quyên góp, ủng hộ cho các hoạt động từ thiện, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn.
Tham gia cách mạng từ tuổi thiếu niên, trải qua 2 cuộc kháng chiến gian khổ, ác liệt, đồng chí Nguyễn Văn Răng luôn là người chiến sĩ Cộng sản kiên trung, chiến đấu dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm với nhiệm vụ được giao. Dù trong hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi, dù ở cương vị chiến sĩ hay chỉ huy, lãnh đạo, Thiếu tướng luôn giữ vững phẩm chất đạo đức chuẩn mực, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội giao cho. Những năm tháng chiến đấu, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân Chương Chiến công hạng Ba; Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.