Đóng góp lớn nhất của ngoại giao là đã trở thành bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối cách mạng. Phải đối mặt với một đối phương mạnh hơn mình nhiều lần, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ, cần kết hợp chặt chẽ các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 13 năm 1967 đã khẳng định: “Đấu tranh ngoại giao không chỉ là đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”. Tiếp đó, năm 1969 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết xác định rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”. Quán triệt chủ trương lớn đó, ngoại giao Việt Nam đã có những cống hiến, đóng góp xứng đáng trong việc xây dựng mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, tạo nên thế trận “vừa đánh vừa đàm” chấm dứt chiến tranh bằng Hiệp định Paris năm 1973 và tiến tới chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975.
Cuộc gặp riêng giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, Bộ trưởng - Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ VNDCCH Xuân Thủy với Trưởng đoàn Mỹ - Harriman, ở Hội nghị Paris, 17-1-1969. Ảnh:TL
Thứ hai, ngoại giao đã phối hợp với quân sự vừa kiên quyết, vừa khéo léo đấu tranh làm thất bại các ý đồ của đối phương. Từ khi Mặt trận Giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam được thành lập tháng 12-1960, các hoạt động ngoại giao của hai miền với phương châm “tuy hai mà một, tuy một mà hai” đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc. Đặc biệt, ta đã mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”, phát huy tối đa hiệu quả của những thắng lợi ở chiến trường trên bàn đàm phán. Những cuộc đấu trí cam go trên bàn đàm phán giữa các nhà chính trị, ngoại giao Việt Nam với các đối thủ sừng sỏ, lão luyện đến từ nền ngoại giao nhà nghề của siêu cường hàng đầu thế giới đã khẳng định bản lĩnh và trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, ngoại giao đã chủ động, tích cực hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Trong bối cảnh có những rạn nứt, bất đồng nhất định trong phe xã hội chủ nghĩa, ta đã chủ động có những đóng góp thiết thực vào việc củng cố đoàn kết, hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, tạo nên chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nhờ các hoạt động ngoại giao rất chủ động, tích cực của ta, Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè, anh em ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, châu Âu đã dành cho nhân dân Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ với nhiều hình thức đa dạng, thiết thực. Hàng triệu người từ những nhà lãnh đạo, chính khách như Chủ tịch Cuba, Thủ tướng Thụy Điển cho đến người dân, kể cả ở chính nước Mỹ, đã xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược của ngoại giao đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự và chính trị. Ta đã đánh giá, nhận định và phán đoán đúng cục diện tình hình thế giới, lợi ích và chủ trương của đồng minh, bạn bè cũng như đối thủ, từ đó đề ra các chủ trương, bước đi phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng, giành thắng lợi từng bước rồi tiến đến giành thắng lợi cuối cùng với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Đặc biệt, với tầm nhìn chiến lược của Đảng và Bác Hồ, ngay từ những ngày khói lửa chiến tranh, chúng ta đã dự liệu các biện pháp nhằm tái thiết đất nước sau khi chiến tranh kết thúc, trong đó có việc xây dựng quan hệ hòa bình, hợp tác với các nước, kể cả Mỹ và những nước đã từng tham chiến tại Việt Nam. Bác Hồ đã từng nêu rõ: “Việt Nam sẵn sàng trải thảm đỏ cho Mỹ rút”. Với tinh thần ngoại giao hòa hiếu đó, ta đã hết sức tạo điều kiện để Mỹ có lối thoát trong danh dự, qua đó góp phần nối lại nhịp cầu hợp tác giữa nhân dân hai nước khi có điều kiện.
Như vậy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sát cánh với các mặt trận quân sự và chính trị, ngoại giao đã có nhiều đóng góp quan trọng, góp phần đưa dân tộc ta đi tới chiến thắng cuối cùng ngày 30-4-1975. Đây là thắng lợi to lớn, có tầm vóc lịch sử, thu giang sơn về một mối, Bắc Nam sum họp một nhà như nguyện vọng cháy bỏng của Bác Hồ lúc sinh thời.
Những bài học lịch sử còn nguyên giá trị
Chiến tranh đã lùi xa ngót nửa thế kỷ, song nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc, chúng ta càng nhận thức rõ tầm quan trọng của đối ngoại nói chung và ngoại giao nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước trước đây cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Trên nền tảng của truyền thống đã được hun đúc thành bản sắc qua hàng ngàn năm của dân tộc ta, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định rõ, độc lập, tự chủ về chủ trương, đường lối là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong mọi hoàn cảnh, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp chặt chẽ các mặt trận đối ngoại - quốc phòng - an ninh là tiền đề để dân tộc ta lấy yếu thắng mạnh, lấy ít kháng nhiều. Cùng với nguyên tắc kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc, chúng ta cũng nhận thức rõ việc ứng xử khéo léo, hài hòa với các nước lớn và xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng giềng luôn là một phần không thể thiếu của ngoại giao Việt Nam.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới vào thời điểm đất nước hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đặt ra sứ mệnh lịch sử mới cho ngoại giao Việt Nam. Hơn bao giờ hết, ngoại giao Việt Nam cần đi tiên phong trong việc kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định và thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Cùng với quốc phòng - an ninh tạo thành thế chân kiềng vững chắc, ngoại giao đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp chủ động, tích cực vào việc bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước còn chưa nguy, phục vụ thiết thực các lợi ích an ninh, phát triển, nâng cao vị thế đất nước. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vững bước trên con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn, nền ngoại giao Việt Nam hiện đại sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, góp phần đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Nguồn: sggp.org.vn