Đến năm 938, với chiến thắng oanh liệt đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, anh hùng dân tộc Ngô Quyền giành lại nền độc lập, mở ra kỷ nguyên Đại Việt lâu dài. Nhiều sử gia đời sau khâm phục cho rằng trên thế giới hiếm có dân tộc nào đã mất nước hàng ngàn năm lại có thể vùng lên giành lại được quyền độc lập tự chủ như vậy.
Bằng kinh nghiệm bản thân, nhân dân ta vô cùng thấm thía nỗi nhục bị đè nén áp bức, mất nước là mất tất cả. Bởi vậy sau đó bao lần quân Tống, Nguyên Mông, Minh rồi Thanh đem hàng chục vạn tinh binh thủy bộ sang xâm lược, kết cục đều chuốc thất bại.
Năm 1858 thực dân Pháp từ phương Tây đến xâm lược nước ta. Chúng hơn ta về phương thức sản xuất, có Quân đội trang bị tối tân, còn triều đình phong kiến nước ta thì quá ươn hèn, nhanh chóng khuất phục chúng. Từ đó nước Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới, người Việt Nam bị gọi là an-na-mít, dân ngu khu đen. Một đất nước nhưng bị chia thành ba kỳ đặt dưới ba chế độ cai trị khác nhau. Nhà tù nhiều hơn trường học, sưu thuế nặng nề, thuốc phiện và rượu ty tràn ngập khắp xóm ấp. Trong hơn 80 năm Pháp thuộc, lịch sử cận đại Việt Nam ghi lại hàng trăm cuộc khởi nghĩa, có cuộc phát triển thành chiến tranh, ghi nhớ gương sáng của hàng trăm thủ lĩnh các phong trào: Ông cha ta có thừa tinh thần đấu tranh anh dũng và bất khuất, duy có điều vẫn không giành được thắng lợi.
Thời kỳ đầu là phong trào yêu nước của nông dân và sĩ phu mang ý thức hệ “trung quân ái quốc” với những tên tuổi Trương Định, Nguyễn Trung Trực rồi Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng (phong trào Cần Vương), Hoàng Hoa Thám… Tiếp theo là phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản mà tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Nhưng cụ Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp, còn cụ Phan Châu Trinh chủ trương cải lương bất bạo động, dựa vào Pháp để chống phong kiến, nên đều thất bại.
Đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
Năm 1911, Nguyễn Thất Thành, sau này là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, rời quê hương buôn ba ở nhiều nước trên thế giới với mục đích tìm đường cứu nước. Ở tuổi hai mươi mốt, Nguyễn Tất Thành rất khâm phục các nhà yêu nước đương thời như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng sớm nhận ra sự hạn chế về tầm nhìn của các vị. Về sau, qua nghiên cứu Người còn nhận ra sự hạn chế của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776), Pháp (1789) ở chỗ không giải phóng được công nông và lao động, đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, thấy những vấn đề đang trăn trở được giải đáp trong đó. Người tin tưởng Lênin, và chủ nghĩa Mác – Lê nin. Người tán thành Quốc tế thứ ba đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản. Cách mạng Tháng mười Nga đã thắng lợi từ năm 1917 giúp Nguyễn Ái Quốc nhận ra chân lý thời đại là: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu phác thảo đường lối cứu nước, đến năm 1927 được in thành sách với tên Đường Kách mệnh.
Mùa xuân năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng cộng sản Việt Nam tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc) thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đảng cộng sản ra đời, có đường lối cứu nước đúng đắn, từ đây lãnh sứ mạng nặng nề là đảng lãnh đạo cách mạng. Được Đảng cộng sản lãnh đạo, phong trào đấu tranh của nhân dân ta phát triển từng bước, có lúc thành cao trào như thời kỳ 1930 – 1931, 1936 – 1939. Là chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng cộng sản Việt Nam (trong hơn hai mươi năm 1930 – 1951 là Đảng cộng sản Đông Dương) không chỉ đề ra đường lối cứu nước đúng đắn mà trong từng thời kỳ đều có những nhận định sát đúng về tình hình, tình thế, từ đó kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, định ra phương pháp tổ chức và đấu tranh thích hợp, cũng như kịp thời tổng kết kinh nghiệm, thực tiễn cách mạng. Vì vậy khi thời cơ đến, Đảng ta mới mười lăm tuổi và có 5000 đảng viên, đã lãnh đạo nhân dân cả nước vùng lên tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945.
Ngay sau đó là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Ba mươi năm chiến tranh vô cùng gian khổ, ác liệt là một thử thách mới đối với nhân dân Việt Nam. Với ý thức làm chủ vận mệnh mình, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nêu cao tinh thần “Thà chết quyết không làm nô lệ”, “Độc lập hay là chết”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Khát vọng, ý chí đó được thể hiện trên các mặt chiến đấu, sản xuất, lao động và học tập dưới sự lãnh đạo của Đảng mác xít – lê nin nít có đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, huy động toàn dân đánh giặc, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh. Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, đồng thời tạo ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên cả nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nối tiếp có tính tất yếu cách mạng dân tộc giải phóng, cũng là cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ. Nó sẽ dẫn đến việc xóa bỏ chế độ người bóc lột người, làm cho mọi người đều tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết trong tác phẩm Đường Kách mệnh những năm 20 của thế kỷ trước. Như chúng ta thường nói, đó là con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn. Chúng ta đang kiên định đi trên con đường đó.