
Để chuẩn bị cho chiến dịch, ngay từ ngày 25.3.1975 Bộ Chính trị đã chủ trương tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất tạo nên sức mạnh lớn nhất giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Thực hiện chủ trương trên, để đấu tranh toàn diện với địch, chúng ta đã chủ động phát huy cao độ cả yếu tố vật chất cũng như chính trị - tinh thần trong toàn chiến dịch.
Về yếu tố chính trị - tinh thần, chúng ta đã động viên đến mức cao nhất lực lượng toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung và Chiến dịch Hồ Chí Minh nói riêng. Nhờ đó mà ta đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước, các tổ chức tiến bộ trên thế giới, đồng thời phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh toàn dân với một lực lượng hùng hậu nhất, cả lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động; cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị; cả lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương cũng như đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân.
Theo quan điểm của Đảng, thể hiện tính quyết định về quân sự, trên 5 hướng tiến công chính của Chiến dịch ta đã sử dụng lực lượng 4 quân đoàn (1,2,3,4) và Đoàn 232 (lực lượng tương đương 1 quân đoàn) cùng lực lượng các binh chủng, với một lượng vật chất dự trữ trên các hướng là 60.647 tấn. Nhờ sự tập trung lực lượng, phương tiện đó, ta đã tiêu diệt các mục tiêu chủ yếu của địch ở Sài Gòn (gồm 5 sư đoàn chủ lực ngụy và lực lượng phòng thủ trong tuyến nội thành hơn 2 sư đoàn). Đây là những đòn quyết định để kết thúc chiến tranh giành thắng lợi.
Phối hợp với lực lượng chủ lực, lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch. Đây là lực lượng rất đa dạng, kết hợp được nhiều hình thức, biện pháp đấu tranh, cả đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị. Có thể nêu lên một số lực lượng và những kết quả cụ thể như: có 60 tổ chức chiến đấu của biệt động thành; 300 nghìn quần chúng vũ trang; 3345 dân quân du kích; trên 3000 tự vệ mật; 2 trung đoàn và 4 tiểu đoàn tập trung; cùng với 6 trung đoàn và 1 lữ đoàn Đặc công do Bộ Chỉ huy Miền huy động. Các lực lượng hoạt động phối hợp rất hiệu quả, chỉ trong 2 ngày 29 và 30.4.1975 đã có 107 điểm nổi dậy giành quyền làm chủ. Lực lượng tại chỗ đã chiếm 9 căn cứ quân sự của địch, 5 chi khu, 21 phân khu và trụ sở y tế; thu 12.275 súng; hoàn thành nhiệm vụ giành và giữ 12 cây cầu chủ yếu vào cửa ngõ Sài Gòn, bảo đảm cho lực lượng cơ động phát huy được tốc độ tiến công.
Trên lĩnh vực ngoại giao, ta tập trung đòi phía địch thi hành Hiệp định Paris, với nguyên tắc: “Kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”. Riêng về ngoại giao quân sự, với 200 cán bộ, chiến sĩ đóng tại trại Đa-vít (Tân Sơn Nhất) ta đã kiên trì đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris, làm cho đối phương khó phán đoán được ý đồ chiến lược của ta cũng như theo dõi chính xác diễn biến chiến dịch trong nội bộ các đơn vị của địch (đại sứ Mác-tin và giám đốc CIA tại Sài Gòn Pôn-ga vẫn cho rằng ta chỉ đánh đến Biên Hòa rồi sẽ ngồi vào bàn đàm phán).
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội và tư tưởng, ta đã có kế hoạch chủ động chuẩn bị mọi mặt để tiếp quản Sài Gòn sau giải phóng. Kết hợp chặt chẽ tiêu diệt địch đi đôi với bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và cơ sở vật chất thu được của địch. Đặc biệt việc giữ được Sài Gòn nguyên vẹn khi kết thúc chiến tranh là một thắng lợi vĩ đại của Đảng ta, nhân dân ta về mặt kinh tế, xã hội và tư tưởng, bảo đảm cho tình hình xã hội nhanh chóng ổn định, nhân dân yên tâm, tin tưởng vào chế độ mới. Đây cũng là đòn giáng mạnh vào luận điệu chống phá của các thế lực thù địch khi Sài Gòn mới được giải phóng.
Tất cả các nội dung trên đều được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất từ trên xuống dưới nên đã tạo yếu tố chắc thắng cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.