Năm mười bốn tuổi, đồng chí tham gia liên lạc, rồi du kích xã, ấp, đến năm 1965 thì nhập ngũ, được biên chế về đơn vị trinh sát Tiểu đoàn 504. Tháng 1-1967, đồng chí được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam.Trưởng thành từ người chiến sĩ trinh sát, trải qua các chức vụ Tiểu đội trưởng, Đại đội trưởng, Đại đội trưởng kiêm Chính trị viên Đại đội, đồng chí trở thành Tiểu đoàn phó - Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 504, đơn vị bộ đội chủ lực của tỉnh Kiến Tường vào tháng 8-1972. Tháng 4-1973, đồng chí được cấp trên cử đi học tại Trường 630, Quân khu 2 (Quân khu 8). Tháng 9-1973, đồng chí hoàn thành khóa học trở về nhận chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 504. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, Tiểu đoàn 504 đã ngoan cường chiến đấu, tham gia Chiến dịch Đông Xuân 1974-1975 đánh địch tạo bàn đạp cho các đơn vị cấp trên, tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kiến Tường.

Trung tướng Lê Mạnh (1948-2017)
Tháng 9-1980, hoàn thành khóa học, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự huyện Vĩnh Hưng, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An. Tháng 9-1981, đồng chí về Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh nhận nhiệm vụ Phó Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Biên phòng tỉnh Long An. Từ tháng 5 đến tháng 10-1984, đồng chí được cử đi đào tạo khóa Chủ nhiệm Biên phòng, sau đó về nhận nhiệm vụ Phó Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An. Tháng 8-1987, đồng chí được bổ nhiệm Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An. Từ tháng 10-1990 đến tháng 3-1991, đồng chí là Học viên Học viện Quân sự Cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng).
Tháng 4-1991, kết thúc khóa học, đồng chí về nhận nhiệm vụ tại Sư đoàn bộ binh 5 (Quân khu 7), với cương vị Phó Sư đoàn trưởng, quyền Sư đoàn trưởng. Tháng 8-1992, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Phó Chỉ huy trưởng – Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An. Trong thời gian này, đồng chí tiếp tục được cử đào tạo ngắn hạn (3 tháng) tại Học viện Quân sự Cấp cao. Tháng 2-1995, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Phó Tham mưu trưởng
Quân khu 7. Tháng 12-1997, đồng chí được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh, được thăng quân hàm Thiếu tướng (11-1999). Trên cương vị công tác mới, đồng chí đã cùng tập thể Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Thành phố thường xuyên duy trì chế độ trực sẵn sàng chiến đấu; kết hợp với lực lượng cấp trên, công an, biên phòng và hệ thống chính trị ở cơ sở triển khai kế hoạch sẵn sàng chiến đấu; lực lượng vũ trang Thành phố luôn nắm chắc tình hình, tham mưu giúp cấp ủy và chính quyền địa phương trong giải quyết các “điểm nóng”, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một địa bàn trọng điểm.
Tháng 12-2000, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân khu 7. Tháng 12-2004, đồng chí được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu 7 và được thăng quân hàm Trung tướng. Trên cương vị Tư lệnh, đồng chí đã cùng với tập thể Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương quán triệt, thực hiện nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng, triển khai toàn diện các mặt công tác. Qua đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu không ngừng nâng lên, kiên định vững vàng trước mọi tình huống; thực hiện tốt công tác dân vận, phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn... không để xảy ra bất ngờ trong các tình huống quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Tháng 3-2010, đồng chí được Nhà nước cho nghỉ hưu. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, đồng chí từ trần vào ngày 7-4-2017. Đồng chí Lê Mạnh trưởng thành từ năm tháng chiến tranh chống đế quốc Mỹ, trải qua học tập, rèn luyện dưới mái trường quân sự từ cơ bản đến nâng cao; thực tế chiến đấu, công tác qua nhiều cương vị chỉ huy từ cơ sở đến quân chủ lực, địa phương và cuối cùng là cương vị Tư lệnh Quân khu 7. Trong suốt hơn 50 năm đứng trong hàng ngũ của Đảng, trên từng cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn kiên định, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, giữ vững và phát huy phẩm chất của người đảng viên Đảng Cộng sản; vai trò, trách nhiệm của người cán bộ Quân đội, không quản ngại khó khăn, gian khổ, nỗ lực phấn đấu, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ.
Với những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Ba; 2 Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Hữu nghị Campuchia hạng Nhất; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.