Trung tướng Lưu Phước Lượng (thứ 3 bên phải) và các đồng chí trong Ban liên lạc truyền thống CCB Sư đoàn 5 tại Thành phố Hồ Chí Minh thăm, tặng quà gia đình chính sách. Ảnh: Thế Anh
Tình thế thật là khó khăn!
Tôi đi cùng Chính ủy Hai Phái, nhiệm vụ của tôi và đồng chí Khoai (tổ đài của tôi) là bảo vệ đồng chí Chính ủy. Đang luồn lách trong đêm tránh trái sáng và sự phát hiện của địch, một quả cối vu vơ phát nổ ngay sau lưng tôi, đồng chí Chính ủy bị thương nặng, còn tôi không sao, nhờ cái máy thông tin K63 che chắn, đồng chí Khoai bị thương nhẹ ở lưng. Băng bó cho đồng chí Chính ủy và cõng đi được vài mét, đồng chí không chịu nổi và trút hơi thở cuối cùng. Như vậy, ngay ngày đầu đợt 2 đánh vào thành phố, tôi đã mai táng đồng chí Trung đoàn trưởng và ngày rút ra tôi lại mai táng đồng chí Chính ủy. Hai sự kiện trên đã để lại dấu ấn đau thương thật là sâu sắc trong cuộc đời tôi.
Tôi và Khoai quay trở lại nơi đơn vị tập kết trước khi hành quân ra (theo quy định của trung đoàn, nếu bị lạc) và ở đây tôi gặp được 4 đồng chí nữa (đồng chí Tân, Tiểu đoàn phó, đồng chí Thơi, Chính trị viên phó tiểu đoàn, đồng chí Thanh và đồng chí Hòa, Đại đội trưởng). Như vậy chúng tôi trở thành một nhóm 6 người. Nhận thấy khả năng thoát ra bằng con đường luồn lách tránh địch không còn nữa, chúng tôi quyết định "chém vè" trong nhà dân và xúc tiến phương án này.
Để tránh sự lùng sục của địch, tạo thế bất ngờ, chúng tôi quyết định vượt qua đường Phan Văn Trị, đi về hướng quận Gò Vấp ngay sát Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn (Bộ Tư lệnh Quân khu 7 ngày nay). Mang khẩu AK len lỏi giữa những mộ đá trong nghĩa địa - tôi đi khom từng bước, cách đường Phan Văn Trị khoảng 10m và dừng lại. Chờ chiếc máy bay C47 thả trái sáng để quan sát mặt đường. Thật bất ngờ! Khi bầu trời vừa bừng sáng, trước mặt tôi chưa đầy 3m một lính thủy quân lục chiến đang ngồi trên bệ đá của một bia mộ, khẩu AR15 tựa vào vai, hai tay đặt trên 2 đầu gối, đầu gục xuống đất, hình như đang say ngủ. Đưa bàn tay về phía sau, tôi ra dấu, cả tổ không động đậy. Ánh sáng tắt dần, chúng tôi bí mật rút lui. Đến nơi an toàn tôi nói với cả tổ: “Nếu không có con Đa-kô-ta (C47) thả trái sáng chắc tôi sẽ “chụp” thằng lính, và cũng không biết tình thế diễn ra như thế nào?
Mặc dù địch đã bố trí trên mặt đường, song các anh vẫn quyết định phải tiếp tục tìm cách để vượt qua bên kia đường. Từ bên trong hẻm lớn, tôi quan sát thấy trên mặt đường yên tĩnh. Bám theo bờ tường tiến ra mặt đường, đi được khoảng 3m, một tiếng nổ lớn chát chúa, buộc tôi phải "khựng lại”, và như cái máy, tôi quay đầu, chạy ngược trở lại. Địch không bắn theo, chắc nó cũng sợ. Cả tổ hội ý, thống nhất không vượt qua đường nữa, phải tìm một ngôi nhà nào đó an toàn để "chém vè". Đi dọc các dãy nhà sát đường Phan Văn Trị, chúng tôi phát hiện có một ngôi nhà trệt lợp ngói, nhưng chắc là có trần. Tôi leo lên mái nhà, dỡ ngói, và xác định đúng là ngôi nhà có trần. Loay hoay xếp ngói cho ngay ngắn, vì quá mệt, sơ ý tôi làm đổ cả chồng ngói rơi xuống nhà tắm lợp bằng tôn. Gây tiếng vang "ầm ầm” giữa đêm khuya, thế là từ ngoài đường địch bắn xối xả vào. Chúng tôi lại tiếp tục chạy . Và cuối cùng, sau nhiều lần bị lộ, bị địch bắn dữ dội và thay đi đổi lại để có một căn nhà cho “vừa ý” – tức là bảo đảm được độ cao an toàn, chúng tôi tìm được một căn nhà có khuôn viên xung quanh.
Sau khi tôi trổ được nóc nhà, tháo gỡ được mấy tấm prô xi măng, cả tổ lần lượt vào trên trong trần nhà. Trần nhà là một dàn cây cứng, bên dưới là những tấm carton mong manh. Lúc bấy giờ đã 1 giờ sáng ngày 17-5-1968. Với vũ khí trong tay (không kể súng ngắn), gồm 1 khẩu AK tôi mang, một quả thủ pháo dù, hai quả lựu đạn M26, cả tổ thề sẽ quyết tử trong mọi tình huống, tại ngôi nhà này. Giờ nghĩ lại tình cảm cách mạng lúc đó sao mà thiêng liêng, đầy hy sinh và cống hiến, khi nghĩ đến Đảng, Bác Hồ và ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tại ngôi nhà đó, ngày thứ nhất trôi qua trong căng thẳng tột độ. Trời vừa sáng, từng toán thủy quân lục chiến lùng sục xung quanh khu vực tác chiến đêm qua. Nhiều tràng súng nổ của cả hai bên. Khoảng 10 giờ sáng, từ trần nhà nhìn xuống hẻm đổ ra đường Phan Văn Trị, từng tốp chiến sĩ ta, trong đó có nhiều thương binh đang bị địch đưa ra ngoài. Tôi đếm có khoảng hơn 100 chiến sĩ ta bị địch bắt. Đến gần trưa, địch quay trở lại khu vực quanh nhà, sau đó leo vào bên trong khuôn viên, đập phá cửa và vào bên trong. Chúng lục soát và cuối cùng đóng quân luôn tại đây. Diễn biến quá bất ngờ và cực kỳ căng thẳng, chỉ cần một tiếng động nhỏ, mọi việc tồi tệ có thể xảy ra. Cả nhóm trong tư thế sẵn sàng quyết tử. Từ trưa đến chiều tối hôm đó, ta trên trần nhà, địch dưới mặt đất và chúng cũng đã thoáng qua nghi ngờ có ai đó trên trần nhà qua lời nói của tên chỉ huy: "Tiểu đoàn trưởng nhắc là phải chú ý các nhà tầng, hôm qua đã có Việt Cộng trốn ở đó". Mãi đến tối chúng mới tập kết ra đường lớn.
Ngày thứ hai, gia đình về, bọn địch không vào. Cả nhà dọn dẹp sửa sang lại nhà cửa. Vẫn căng thẳng, nhưng dễ thở hơn hôm qua rất nhiều. Chúng tôi theo dõi xem thái độ gia đình ra sao. Nhưng không nghe nói gì, chỉ thỉnh thoảng phiền trách đám lính quậy phá. Đêm gia đình không ở lại. Trước khi đi, gia đình có để một số thức ăn trên bàn, cố tình nói lớn "ai có cần gì cứ lấy". Đêm hôm đó, chúng tôi xuống đất, quan sát trong ngôi nhà, chỉ lấy nước uống rồi lại quay lên trần nhà.
Ngày thứ ba, từ sáng sớm, qua kẽ hở, tôi thấy một người đàn ông lớn tuổi cứ đi đi lại lại, rù rì việc gì đó với gia đình, tôi không nghe rõ. Sau đó ông bắc ghế để nhìn lên trần nhà, chúng tôi đã ở tư thế sẵn sàng. Khi bắt gặp chúng tôi, tôi nói ngay: "Chúng cháu là Quân giải phóng”. Ông thể hiện rõ sự thông cảm và thân thương. Ông khoát tay và nói: "Các chú có cần gì, cứ nói". Chúng tôi trả lời bằng cái gật đầu đầy lòng biết ơn. Cuộc tiếp xúc giữa nhóm chúng tôi và gia đình bắt đầu và chúng tôi xem cuộc gặp gỡ này như một sự kiện lịch sử của cả cuộc đời. Đêm đầu tiên, những người thân trong gia đình nhìn chúng tôi như những "thiên thần” với cảm xúc mến mộ khó tả. Sau một lúc tâm sự, bà mẹ (chủ nhà) chủ động giới thiệu về gia đình với chúng tôi. Té ra, bà là chị ruột của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bà chậm rãi thổ lộ:
- Đây là bí mật của cả gia đình đã được giữ kín không được nhắc tới trong suốt bao nhiêu năm nay.
Bà kể tiếp, trong các con của bà, người con gái thứ tư có chồng là quan chức làm việc trong chính quyền Sài Gòn, trưa nào cũng về nhà.
- Không biết nó nghĩ như thế nào khi biết chuyện này, có thể sẽ xảy ra rắc rối, khó xử - Bà băn khoăn nói - Vì vậy, giờ trưa mấy con phải im lặng.
Má Hai còn nói thêm: “Cái nhà mà thằng Lượng làm đổ chồng ngói xuống nhà tắm là nhà của một họa sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn, ông này không ưa Việt Cộng đâu”. Nếu ở nhà đó chắc chắn đã gặp sự cố nguy hiểm rồi! Còn nhà cạnh đây, bên ngoài hàng rào là nhà của thằng Trung, công binh quân đội Sài Gòn, gia đình cũng thường qua lại đây, cho nên phải kỹ mới được".
Từ hôm đó, trưa nào, người con gái thứ tư cũng tìm cách rủ chồng sớm rời khỏi ngôi nhà. Kể từ lúc đó, chúng tôi gọi bà (chủ nhà) là má - má Hai Cây Thị. Những ngày ở nhà má Hai, gia đình tâm sự rất nhiều. Và việc đầu tiên chúng tôi hỏi má Hai: vì sao gia đình nghĩ có chúng tôi ở trên trần nhà? Má Hai nói, bác trai phát hiện có những luồng sáng nhấp nháy trên tường (do lớp carton bị hở ra với khung trần, vì quá nóng chúng tôi dùng tay quạt cho mát đã tạo ra hiện tượng trên; cái nữa, là mất một bình sành đựng nước uống (do chúng tôi đã lấy nước đưa lên trần nhà) và cuối cùng, gia đình cố tình để lại thức ăn mà sao vẫn còn nguyên vẹn. Phải truy cho ra những việc này.
Các anh chị trong gia đình đã tận tình chăm sóc cho anh em chúng tôi, từ việc chăm lo ăn uống, cắt tóc, điều trị vết thương, mua sắm quần áo đến việc móc ráp cơ sở, bất chấp hiểm nguy cho cả gia đình.
Hơn nửa tháng ở nhà má Hai, khi không có mặt người con rể, chúng tôi được sinh hoạt thoải mái hơn. Bên ngoài, bọn địch vẫn chốt các ngả đường và lùng sục ngày đêm. Đầu tháng 6, chúng tôi được cơ sở tổ chức đưa ra ngoài trong một chuyến đi hợp pháp nguy hiểm nhưng đầy thú vị trong sự thân thương bịn rịn của má Hai và gia đình. Đêm trước khi tôi rời khỏi nhà má Hai, má bày tỏ tình cảm mến thương đặc biệt đối với tôi, bà nói: "Con phải chú ý giữ gìn sức khỏe, người nhỏ và ốm yếu như vậy không đủ sức đi chiến đấu đâu! Còn việc vợ con để sau này má lo cho, mấy đứa nhỏ ở nhà (con gái của bà), nghe Quân giải phóng cũng mến mộ lắm!". Tôi cười hồn nhiên và nhớ mãi lời nói đầy yêu thương nghĩa tình của bà. Chị Bảy Hà (Đỗ Thị Trinh, sau này là Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và chị Chín Nghĩa (Nguyễn Thị Nghĩa, Chủ nhiệm Hợp tác xã thành phố, Anh hùng Lao động) được tổ chức giao nhiệm vụ, đã mưu trí, không ngại hiểm nguy đưa chúng tôi đến nơi an toàn.
Nhớ lại, trước chuyến đi đầy mạo hiểm này, chị Bảy Hà là người đầu tiên vào phòng ngủ của gia đình, trao cho tôi giấy tờ giả, là cán bộ bình định nông thôn, đồng thời sinh hoạt "nội quy” đi lại trên đường; "tuyệt đối không nhìn vào mặt "bọn lính”, mọi việc để tôi đối phó. Còn bây giờ tôi đưa anh đi một đoạn đường, rồi sẽ giao cho một chị cũng đi xe Honda, đưa anh đi tiếp", chị dặn như vậy! Vừa bước ra cửa nhà, đã có hai lính thủy quân lục chiến đứng trước cổng, chị Bảy nhanh nhẹn bồng cháu bé trên tay má Hai rồi nói:
- Tụi con về ngoài đó, ngày mai tụi con vô!
Chị trả em bé lại cho má Hai rồi đẩy xe Honda ra cổng, nổ máy, chị và tôi lướt qua hai tên lính đang nhìn theo, trong sự ngơ ngác, lạnh lùng.
Đi được một đoạn trên đường Nơ Trang Long ngày nay thì xe dừng lại bên lề đường, tôi ngồi sau xe chị Bảy, tôi nghe chị Chín Nghĩa (sau này mới biết) người đang chờ đưa tôi đi tiếp, trách chị Bảy Hà sao đến chậm theo hiệp đồng? Rồi chị giả vờ xe bị hư, đi ngay không được. "Anh giả bộ sờ lắc bugi giùm tôi" - chị Chín Nghĩa nói. Tôi đụng vào cái bugi, nhưng không dám đụng mạnh, sợ nó hỏng hóc thật thì nguy hiểm. Bằng động tác nhanh nhẹn, chị đạp cho xe nổ máy, tiếp tục đưa tôi đi đoạn đường tiếp theo. Chị dặn: "Mình phải đóng kịch như người tình mới qua mặt được mấy thằng lính này!". Tôi thấy ngần ngại quá, Quân giải phóng tuổi còn trẻ đâu có quen cái cảnh này! Chị nhắc lại: "Sắp đến cầu Bình Lợi, lính đông lắm! Anh cứ tự nhiên!". Thật sự tôi cố gắng hết sức, để tự nhiên làm đúng như lời chị. Nhắc lại kỷ niệm nhỏ nhưng mang ý nghĩa lớn để bày tỏ sự cảm ơn chân thành của tôi đối với hai chị.