Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
(3-1968)
Nguồn: Thơ Lê Anh Xuân-NXB Gáo Dục, 1981
Những con người làm nên lịch sử
Lê Anh Xuân là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kí kháng chiến chống Mỹ. Người sinh viên của quê hương Đồng khởi Bến Tre này đã tập kết ra Bắc nay sẵn sàng rời bỏ bục giảng đường Đại học Tổng hợp Hà Nội theo tiếng gọi vào Nam chiến đấu. Anh hy sinh anh dũng tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An vào ngày 24/5/1968.
Mang trong mình sứ mệnh: “Nhà thơ, chiến sĩ” trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968. Sống và chiến đấu trong bom đạn, máu lửa, cây bút Lê Anh Xuân đã ghi lại một cách chân thực, sinh động về những con người đã làm nên lịch sử. Với âm hưởng anh hùng ca hào hùng, lời thơ kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn, giữa sử thi và cảm hứng bay bổng- “Dáng đứng Việt Nam” đã khắc họa rõ nét hình ảnh người chiến sĩ Giải phóng quân với khí phách hiên ngang, dũng mãnh trong trận đánh ác liệt, đẫm máu tại sân bay Tân Sơn Nhất vào đêm 31/01/1968.
Nếu trong thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ta nghèn nghẹn khi bắt gặp hình ảnh người lính Thủ đô:“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá dữ oai hùm/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” hay “Nhớ” của Hồng Nguyên “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh” thì ở Lê Anh Xuân lòng ta lại rạo rực, khí thế, như thể ta đang sống lại thời kì lịch sử ấy, một hình ảnh đẹp tuyệt vời và phải “chớp” được, “bắt” được thật nhanh mới có thể thấy, mới có thể tạc nên “Dáng đứng” bất hủ của con người Việt Nam. Dù có chết thì vẫn chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, vẫn gượng đứng lên tì súng vào máy bay giặc để chiến đấu, lấy máy bay giặc làm nơi che chở.
Sự kiêu hãnh, dũng cảm bất phục của các anh cũng khiến cho kẻ địch khiếp hãi “Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng /Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn /Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm /Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”. Chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập tự do dân tộc và hơn hết là lòng yêu nước đã tạo nên vũ khí tinh thần lợi hại, làm nên sức mạnh đánh bại mọi kẻ thù. Trong khoảnh khắc đau thương trước sự hy sinh của các anh thì Lê Anh Xuân đã “Biến đau thương thành sức mạnh, hành động”, sự căm thù giặc mãnh liệt, dâng trào: “Anh tên gì hỡi Anh yêu quý /Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng /Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ /Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong”. Thơ của Lê Anh Xuân là vậy, chân thực nhưng lãng mạn. Giọng điệu giản dị, đậm đà mang âm hưởng ngợi ca đã tạo nên sự đồng điệu với tâm hồn người đọc. Trong hoàn cảnh chiến tranh, biết đau thương đấy, biết mất mát ấy nhưng phải gác sang một bên để tiếp tục chiến đấu.
Các anh- Những con người không tên, không tuổi, nhưng lại : “ Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn hiên ngang”. Họ chỉ để lại cho đời một bức tượng đài vững chãi của người lính Việt Nam giữa mưa bom bão đạn. "Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ /Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường /Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ: /Anh là chiến sĩ Giải phóng quân”. Các anh- những con người: “Đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất nước”(Đất nước-Nguyễn Khoa Điềm). Hình ảnh người lính hiện ra thật thật đẹp, thật bình dị- Sống vì đất nước, chết vì đất nước: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy”(Đất nước- Ngyễn Đình Thi). Các anh mãi sống trong hình hài đất nước, trong từng thửa đất, con sông, trong trái tim của triệu triệu con người vì chính sự hy sinh của các anh, và đồng đội đã “thành tên cho đất nước”, tô thắm thêm lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, hiên ngang trên bầu trời Việt Nam.
Hình ảnh của anh “Giữa đường băng Tân Sân Nhất” đã mở ra một tương lai tốt đẹp cho một dân tộc độc lập, tự do, chủ quyền : “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Đây cũng chính là ước mong của những người lính khi ra trận, của hàng ngàn con người Việt Nam. Dáng đứng “tạc và thế kỷ” là của con người cụ thể được nhà thơ Lê Anh Xuân khắc họa rõ nét, chân thực trong cuộc chiến khốc liệt, là biểu tượng tiêu biểu cho các thế hệ chiến sĩ làm nên chiến thắng- vùng lên đập tan xiềng xích, nô lệ.
Thơ hay chính là “Thơ đánh thức được tâm hồn”- “ Dáng đứng Việt Nam” đã đánh thức được trái tim của hàng triệu con người thời bình, là sự biết ơn, cảm phục của những con người đi trước “ có công dựng nước” và hôm nay chúng ta phải nhắc nhở nhau “giữ lấy nước”. Không có sự hi sinh nào là vô nghĩa, không có sự tự do nào là không phải trả giá. Máu của những người chiến sĩ giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất năm ấy đã góp phần làm nên chiến tích lịch sũ, làm nên Tổ quốc ngày hôm nay.