(QK7 Online) - Sau chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không", báo chí trong và ngoài nước đều ghi nhận trong số 68 chiếc B52 bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc, có 2 chiếc bị Không quân bắn rơi bởi chiến công lừng lẫy của 2 phi công Phạm Tuân và Vũ Xuân Thiều, trong 2 đêm 27 và 28 tháng 12 năm 1972. Phải mấy chục năm sau, từ nhiều nguồn thông tin người ta mới biết có đến 3 chiếc B52 bị Không quân nhân dân Việt Nam hạ gục và phi công đầu tiên trên thế giới cho B52 đo ván vào đêm 20 tháng 11 năm 1971 là Vũ Đình Rạng khi đó mới 26 tuổi, quê Tiền Hải, Thái Bình.
Vũ Đình Rạng, là một trong số phi công được chọn vào Phi đội đánh đêm khi mới tốt nghiệp bay năm 1968 ở Liên Xô về, với số giờ bay khoảng 200 giờ. Quê anh ở Nam Thắng, Tiền Hải, Thái Bình. Năm 1963 chàng trai quê lúa lên đường nhập ngũ, được biên chế về Lữ đoàn dù 305, sau đấy anh được tuyển chọn đi học lái máy bay ở Krasnodar, Liên Xô. Sau khi tốt nghiệp bay, về nước anh được biên chế về Trung đoàn Không quân 921. Tháng 8 năm 1970 anh tham gia vào đoàn nghiên cứu cách đánh máy bay B52 trên vùng trời Khu 4.
Anh tâm sự: “Chiến trường Khu 4 rất ác liệt, nhiều khó khăn. Đường băng dã chiến ngắn hẹp, như sân bay Anh Sơn chiều dài chỉ có 1800m, chiều rộng 27m, lát bằng ghi sắt; địa hình hiểm trở. Lớp phi công chúng tôi tuổi đời còn rất trẻ, giờ bay ít, chưa có kinh nghiêm trận mạc. Về phía Mỹ, được trang bị vũ khí hiện đại hơn, nhiều phi công có hàng ngàn giờ bay. Máy bay thường hoạt động ban đêm, với nhiều phương tiện gây nhiễu chủ động lẫn thụ động, có lực lượng đông đảo máy bay tiêm kích bảo vệ xung quanh. Phi công lái MiG21 ban đêm chủ yếu dựa vào sự chỉ huy, dẫn đường từ mặt đất. Dưới sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, chúng tôi thực hành huấn luyện bay, dẫn đường trong đêm. Mục tiêu giả tưởng cho máy bay B52 là máy bay IL18 tuy nhiên kích thước nhỏ hơn máy bay B52 nhiều. Một phần quan trọng là việc huấn luyện cho phi công cất cánh, hạ cánh ban đêm, trên các sân bay dã chiến ngắn hẹp thiếu đèn chiếu sáng hạ cánh”.
Khoảng 19:30 ngày 20/11/1971 Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng bắt được tìn hiệu nhiễu của B52 từ Thái Lan bay qua, Phi đội trưởng Đinh Tôn được lệnh cất cánh từ sân bay Đồng Hới bay lên nghi binh; khi lên cao thì Radar địch phát hiện, chúng cho B52 quay về, Sở chỉ huy dẫn cho phi công Đinh Tôn về Nội Bài hạ cánh. Khoảng 1 giờ sau, Sở chỉ huy lại bắt được tín hiệu nhiễu của B52. Từ sân bay Anh Sơn, phi công Vũ Đình Rạng được lệnh cất cánh theo đúng như phương án: bay thấp để bảo đảm bí mật, hạn chế liên lạc qua máy đối không. Khi cách mục tiêu khoảng 15km anh được lệnh của Sở chỉ huy vứt dầu phụ, bật Radar và bắt được tín hiệu của 3 chiếc máy bay B52. Khoảng cách lúc này từ MiG21 đến chiếc B52 số 3 trong đội hình khoảng 6km, máy bay MiG21 bay thấp hơn đội hình B52, Vũ Đình Rạng kéo máy bay lên cao và bám chiếc B52 đi đầu đội hình, anh xin phép công kích. Trung tá Trần Hanh ở Sở chỉ huy tiền phương B8 cho phép và động viên anh bình tĩnh công kích. Máy bay B52 bùng cháy.
Sau này từ nhiều nguồn thông tin, người ta mới biết chiếc B52 do phi công Vũ Đình Rạng bắn đêm 20/11/1971 bị thương rất nặng phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom – Phanom. Chiếc B52 sau đó được tháo ra chở về Utapao… rồi bỏ đi. Chiếc máy bay B52 may mắn không bị nổ tung, nhưng nó đã vĩnh viễn bị loại khỏi vòng chiến đấu, không còn có thể tiếp tục gây thêm tội ác được nữa.
Sau đêm ngày 20/11/1971 máy bay B52 đã không còn hoạt động ở các trọng điểm Khu 4. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển chi viện cho tiền tuyến trên đường mòn Hồ Chí Minh. Chiến công của phi công Vũ Đình Rạng là kinh nghiệm quí báu để KQNDVN hoàn chỉnh cách đánh B52, góp phần đáng kể vào chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
Trong 12 ngày đêm đánh B52, phi công Vũ Đình Rạng nhiều lần xuất kích đánh chặn B52, tuy anh không bắn rơi thêm được chiếc nào nhưng những lần xuất kích của anh đều gây rối loạn trong đội hình bay của địch, phá tan đội hình bay của địch.
Sau gần 40 năm phục vụ trong Quân đôi, phi công Vũ Đình Rạng nghỉ hưu và sống tại Hà Nội. Thỉnh thoảng ông vào thành phố Hồ Chí Minh thăm con cháu và các đồng đội cũ, rất mừng khi thấy ông còn tinh nhanh mạnh khoẻ. Ông tâm sự: “Trong chiến dịch 12 ngày đêm cuối năm 1972, mỗi khi MiG21 cất cánh đánh chặn đội hình B52 lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì làm cho đội hình của địch bị tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng phòng không của ta tiêu diệt máy bay địch. Lúc đó không ai còn nghĩ đến sự hy sinh, mất mát ...”. Ông nhắc đến lá thư viết dở dang của phi công Vũ Xuân Thiều gửi lại cho gia đình trước trận đánh: “…Trải qua hai đêm nặng nề, cái nặng nề của Hà Nội phải hứng chịu lửa bom hết đợt này đến đợt khác. Rồi sẽ còn chồng chất những tội ác nào nữa? Đó là điều ai cũng lo lắng. Con nghĩ lúc này không phải là lúc lo lắng cho ngôi nhà thân yêu của mình cùng với…”. Ông trầm ngâm: “Anh Thiều đã hy sinh. Những người còn lại như tôi, lâu lâu anh em ngồi với nhau vẫn nói: Mình còn sống được là may”. Ông cho rằng, khi còn trong quân ngũ, hay cuộc sống về hưu bây giờ là mình đã hoàn thành nhiệm vụ, sống thanh thản, như thế là hạnh phúc lắm rồi.