Mặc vào quân phục ngày xưa
Xôn xao nỗi nhớ như vừa hôm qua
Ba lô khoác nặng đường xa
Gấp trang sách lại em ra chiến trường
Rời quê trăm nhớ ngàn thương
Trăng đang tròn bóng gió sương dãi dầu
Gậy mòn chống dốc rừng sâu
Tóc xanh cứ rụng mái đầu xác xơ
Nhìn về quê thấy xa mờ
Đêm nằm trằn trọc giấc mơ bập bềnh
Trường Sơn đèo dốc chênh vênh
Em ôm tay lái thác ghềnh vẫn qua
Khi Nam khi Bắc vào ra
Hậu phương
tiền tuyến
em là con thoi
Dệt ngày mưa đổ nắng oi
Dệt trong bom đạn sáng ngời chiến công
Nay cùng với lúa xanh đồng
Với thuyền với bến dòng sông hiền hòa
Ôn về năm tháng đi qua
Tự hào một thuở em là quân nhân.
Lê Hải Chinh
Kỷ niệm về những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời
Thơ viết về nữ quân nhân không xa lạ với người đọc và hơn thế luôn nhận được sự ngưỡng mộ, yêu mến. Thơ viết về nữ quân nhân trong dòng chảy thơ ca hiện đại của dân tộc luôn có chỗ đứng nhất định, bởi vẻ đẹp riêng không trộn lẫn trong cách nghĩ, cách thể hiện. Em là quân nhân của Lê Hải Chinh là bài thơ như thế.
Nhà thơ - cựu chiến binh Lê Hải Chinh (Lê Gái), sinh ra ở Thanh Hóa, là cựu lái xe vận tải Trường Sơn thuộc Đoàn 559. Sau khi đất nước thống nhất, bà được cử đi học y sĩ và công tác tại một số bệnh viện quân y trước khi chuyển ngành. Em là quân nhân in trong tập thơ Người về từ độ thanh xuân của tác giả Lê Hải Chinh do nhà xuất bản Văn hóa- Văn nghệ ấn hành năm 2016 gồm 253 bài thơ, được viết theo thể Đường thi và lục bát với lời thơ trữ tình, sâu lắng về những dấu ấn với quê hương, đất nước, hoài niệm của người lính những năm tháng bảo vệ Tổ quốc trên đường Trường Sơn khói lửa.
Bài thơ Em là quân nhân đem đến cho người đọc sự chân tình, mộc mạc và ấm áp. Bài thơ mở đầu bằng sự hoài niệm về quá khứ nhân tình huống bất chợt “Mặc vào quân phục ngày xưa”. Vậy ra không nói bạn đọc đã rõ, đây là thơ của người đã đi qua quân ngũ, sống những năm tháng của đời lính, mà lại là lính lái xe Trường Sơn. Vào lính, với người phụ nữ đã là quả cảm, người phụ nữ này còn là lính lái xe “Khi Nam khi Bắc vào ra” giống như con thoi chạy mãi không biết mệt, nối liền hậu phương- tiền tuyến:
Trường Sơn đèo dốc chênh vênh
Em ôm tay lái thác ghềnh vẫn qua
Khi Nam khi Bắc vào ra
Hậu phương
tiền tuyến
em là con thoi
Dệt ngày mưa đổ nắng oi
Dệt trong bom đạn sáng ngời chiến công
Đi qua những cánh rừng cháy đỏ, những hố bom và đạn lửa quân thù, sự khốc liệt của chiến trường không làm cho trái tim người nữ quân nhân nao núng. Những câu thơ trong dòng hoài niệm của tác giả mang vẻ đẹp lãng mạn và tươi xanh.
Chuyện đời người nữ quân nhân, như cách tác giả nói, chỉ là câu chuyện của hôm qua, tươi mới lắm, còn rõ lắm. Cũng đúng thôi, với người lính Trường Sơn năm nào, làm sao quên được những kỉ niệm vui buồn mà chỉ người trong cuộc mới thấm thía và mãi khắc sâu:
Ba lô khoác nặng đường xa
Gấp trang sách lại em ra chiến trường
Rời quê trăm nhớ ngàn thương
Trăng đang tròn bóng gió sương dãi dầu
Gậy mòn chống dốc rừng sâu
Tóc xanh cứ rụng mái đầu xác xơ
Nếu là họa sĩ tôi sẽ vẽ bức tranh nữ quân nhân để tri ân với người con gái quê hương đã cống hiến tuổi thanh xuân cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Giữa Trường Sơn, người nữ quân nhân năm nào và trong cuộc sống hôm nay là người vợ, người mẹ, người bà của chồng, con và các con cháu lại hiện về trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi: “Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”! Cái mạnh mẽ nơi chiến trường, cái hiền hòa nhân hậu trong cuộc sống đời thường xem ra cũng chỉ là một, được đan lồng kết nối trong trái tim của người phụ nữ Việt Nam giàu lòng nhân hậu:
Nay cùng với lúa xanh đồng
Với thuyền với bến dòng sông hiền hòa
Từ chiến trường, trở về với cuộc sống đời thường, người nữ quân nhân mang trong mình trách nhiệm mới- trách nhiệm với gia đình, chồng, con. Hoài niệm về những tháng năm “lửa cháy”, đầy hào hùng gian khó, người chiến sĩ vẫn luôn tự hào:
Ôn về năm tháng đi qua
Tự hào một thuở em là quân nhân
Đọc Em là quân nhân, người đọc nhận ra chân dung người nữ quân nhân giản dị nhưng cũng thật mạnh mẽ, cứng cỏi “gian khó phải lùi nhường em tiến bước”. Bài thơ Em là quân nhân của Lê Hải Chinh không gọt giũa trau chuốt, điêu luyện, tứ thơ cũng không mới nhưng bản thân nó đã cho người đọc thấy vẻ đẹp hào hùng của những con người một thời xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, biết phía trước là gian khổ, hi sinh nhưng tâm hồn vẫn phơi phới một niềm tin chiến thắng. Có lẽ chính vì vậy mà bài thơ có chỗ đứng và được bạn đọc đón nhận.
Lê Văn Thắng