(QK7 Online) - Sự ra đời của LLVT Quân khu 7 từ 77 năm trước khẳng định tầm nhìn chiến lược, quyết tâm to lớn, hành động kịp thời, đúng đắn của Bác Hồ và Trung ương Đảng.
Quân khu 7 - miền Đông Nam Bộ hào hùng. Ảnh: Duy Tình
Bối cảnh đất nước, tình hình cách mạng lúc bấy giờ đòi hỏi phải có sự thống nhất LLVT cách mạng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm nòng cốt tập hợp sức mạnh của Nhân dân kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.
Quyết định sáng suốt, kịp thời và tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về vấn đề này đã tạo nên sức mạnh kháng chiến to lớn ở Nam Bộ, góp phần giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, giữ vững nền hòa bình độc lập tự do của dân tộc trong tình hình mới hiện nay.
Có thể nói, LLVTQK7 là đội quân tinh nhuệ, năng động, sáng tạo trong chiến đấu, rèn luyện, lao động sản xuất phát triển kinh tế, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh… LLVT Quân khu 7 luôn là mũi nhọn tiên phong trên tuyến đầu “đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần”.
Ngược dòng lịch sử cùng lời ca hùng tráng “mùa thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”, mỗi chiến sĩ đồng bào Nam Bộ khi nhắc đến cuộc chiến, chắc hẳn trong hồi ức vẫn còn đọng mãi khí thế hào hùng, khí thế tiến công như vũ bão của quân và dân Nam Bộ. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công các trụ sở của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Quân và dân Nam Bộ, trước hết là quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đứng lên chiến đấu, cuộc chiến lan rộng ra khắp miền Đông và sau đó là miền Tây Nam Bộ, mở đầu 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ của Nhân dân Sài Gòn - Gia Định.
Để có sự thống nhất trong chỉ huy, chỉ đạo, ngày 10-12-1945, tại Hội nghị quân sự Nam Bộ do Xứ ủy tổ chức (họp ở xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Hòa tỉnh Chợ Lớn, nay thuộc tỉnh Long An) đã ra quyết định thành lập Khu 7 - một tổ chức quân sự hành chính do đồng chí Nguyễn Bình làm Khu bộ trưởng, đồng chí Trần Xuân Độ làm Chủ nhiệm Chính trị bộ.
Nói về thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, quân và dân miền Đông Nam Bộ, trước hết là quân và dân thành phố Sài Gòn đã anh dũng đứng lên kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn bỡ ngỡ của buổi đầu đánh giặc, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã vây hãm quân địch trong thành phố, tạo điều kiện cho Nhân dân toàn miền củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng LLVT, xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị tinh thần và thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Sau gần 15 tháng chiến đấu, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ “đi trước” mà lịch sử giao phó, góp phần làm thất bại kế hoạch chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tạo điều kiện về thời gian cho Nhân dân cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến một cách chủ động.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975), là giai đoạn trường kỳ kháng chiến của quân và dân đầy cam go và ác liệt trước kẻ, địch vũ khí tối tân hiện đại. Ngay những ngày đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong thế trận rất chênh lệch, nhưng Nhân dân miền Đông và cực Nam Trung Bộ vẫn vững tin vào đường lối, chủ trương của Đảng, kiên trì cuộc đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định Giơneve, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống “tố cộng, diệt cộng”, chống càn quét, khủng bố, cướp đất, dồn dân. Vừa đấu tranh chính trị, vừa có ý thức chuẩn bị tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang.
Từ 1957 đến đầu năm 1961, các đơn vị đầu tiên của LLVT miền Đông thực hiện một số trận đánh, đặc biệt trận đánh quận lỵ Dầu Tiếng (ngày 11-8-1958), sau 30 phút ta tiêu diệt và làm chủ toàn bộ căn cứ 1 tiểu đoàn lính “Cộng hòa”, gây tiếng vang lớn trong toàn miền Đông và cả nước. Lần đầu tiên từ sau 1954, LLVT miền Đông chiếm được một chi khu quân sự địch. Trận đánh vào trụ sở cơ quan MAAG của Mỹ đóng tại nhà máy của BIF Biên Hòa do đặc công biệt động Biên Hòa thực hiện (ngày 9-7-1959), là trận đánh Mỹ đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, diệt 2 cố vấn Mỹ, ghi tên đầu tiên trong danh sách lính Mỹ tử trận ở Việt Nam, gây tiếng vang lớn ở chiến trường. Ngày 26-1-1960, LLVT miền Đông đánh trận Tua 2 (Tây Ninh) làm chủ căn cứ một trung đoàn chủ lực ngụy, diệt và làm bị thương, bắt sống nhiều tên, thu nhiều vũ khí trang bị, mở đầu cho phong trào Đồng Khởi ở miền Đông. Trong cuộc Đồng Khởi 1960, quân dân miền Đông và cực Nam Trung Bộ đã đánh sụp ngụy quyền cơ sở, giành quyền làm chủ phần lớn nông thôn (Thủ Dầu Một giải phóng 25/60 xã, Long An giải phóng 2/3 nông thôn, Kiến Tường phá banh gần hết khu trù mật dinh điền, Tây Ninh giải phóng 1/3 nông thôn, vùng ven Sài Gòn kiểm soát hơn 1/2 địa bàn phía Bắc, làm chủ vùng nông thôn Tây, Tây Nam thành phố...).
Trong giai đoạn “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy, LLVT miền Đông và cực Nam Trung Bộ đánh nhiều trận tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Trong đó, tiêu biểu nhất là Chiến dịch Bình Giã (từ ngày 2-12-1964 đến 7-1-1965). Đây là lần đầu tiên trên chiến trường B2 ta mở chiến dịch lớn cấp sư đoàn.
Bình Giã là trận đánh lớn thứ hai sau Ấp Bắc, ta đánh bại chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của Mỹ. Diệt và làm bị thương 1.755 tên. Lần đầu tiên ta diệt một tiểu đoàn dù thuộc lực lượng Tổng trù bị của quân ngụy. Chiến dịch Bình Giã là trận đánh mạnh nhất làm sụp đổ “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Giữa năm 1965, Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Miền Đông là chiến trường địch tập trung lực lượng cả Mỹ lẫn ngụy cùng khối lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh lớn nhất.
Chiến trường miền Đông lúc này đã có 3 sư đoàn chủ lực Miền (Sư 9, Sư 5, Sư 7). Bộ đội chủ lực Khu 7 phát triển lên 2 trung đoàn, Quân khu Sài Gòn - Gia Định có 5 tiểu đoàn chủ lực và Đặc khu Rừng Sác được thành lập ngay sát nách Sài Gòn. Với lực lượng phát triển mạnh lại được sự chi viện của cả nước, quân dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ chủ động xác định quyết tâm đánh Mỹ, diệt ngụy, vận dụng phương thức, phương châm tiến hành chiến tranh linh hoạt, có hiệu quả, phát huy khả năng địa phương trong việc đảm bảo hậu cần tại chỗ, đặt cơ sở cho việc xây dựng và phát triển mạng lưới hậu cần Nhân dân trong chiến tranh, góp phần lần lượt đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất và lần thứ hai của địch, thực hành các cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968, đánh vào các sào huyệt của địch ở Sài Gòn, giành thắng lợi lớn, góp phần buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và chịu đàm phán với ta ở Paris.
Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ sau ngày ký Hiệp định Paris (27-1-1973), quân dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu (để cho địch lấn đất, chiếm dân), kịp thời chuyển sang thế tấn công giành chủ động. Nhằm tạo thêm thế và lực mới, từ ngày 12-12-1974 đến 6-1-1975, ta quyết định mở Chiến dịch Đường 14 Phước Long và giành thắng lợi quan trọng, ta giải phóng một tỉnh mà địch không lấy lại được, Mỹ không dám can thiệp trở lại. Việc giải phóng Phước Long trở thành “Đòn trinh sát chiến lược”, tạo thêm cơ sở để Bộ Chính trị bàn về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong năm 1975 hoặc 1976.
Qua chiến thắng Buôn Ma Thuột - Tây Nguyên và các chiến thắng ở miền Đông Nam Bộ, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Trung ương Cục miền Nam ra Quyết định 15 (ngày 29-3-1975) về tổng công kích, tổng khởi nghĩa thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị. Ngày 7-4-1975, nhiệm vụ được quán triệt tại Căn cứ Tà Thiết (Tây Lộc Ninh), Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập.
Lực lượng tại chỗ được thống nhất lại (gồm Sư đoàn 2 Đặc công Miền, Lữ 316 Đặc công biệt động, các lực lượng của Sài Gòn – Gia Định). Riêng đặc công biệt động có 30 tiểu đoàn. Nhiệm vụ của các lực lượng tại chỗ là đánh chiếm các mục tiêu then chốt có thể chiếm được, phát động Nhân dân nổi dậy làm chủ, tạo mọi điều kiện tại chỗ để các quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Nhiệm vụ đặc biệt là chiếm giữ 14 cây cầu trên các ngả đường tiến về Sài Gòn (chủ yếu do Lữ 316 Đặc công biệt động và Trung đoàn Đặc công 116 thực hiện).
Ngay sau khi có lệnh trong hai ngày 29 và 30-4-1975 quân dân miền Đông Nam Bộ cùng các binh đoàn chủ lực thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy thành công, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trong 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn, có 2 cánh quân thuộc các lực lượng chiến đấu trên chiến trường Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đó là Quân đoàn 4 ở hướng Đông và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) ở hướng Tây Nam.
Quần chúng Sài Gòn, Gia Định nổi dậy ở 107 khu vực (có 31 khu ngoại thành), 32 khu vực nổi dậy trong ngày 29-4 và rạng sáng 30-4, 34 khu vực nổi dậy trước khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Sau ngày 30-4-1975, cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu tham gia nhiệm vụ quân quản, tổ chức sắp xếp lại lực lượng theo chỉ đạo của Trung ương. Đất nước hòa bình thống nhất, LLVT Quân khu 7 cùng Nhân dân bắt tay khắc phục hậu quả chiến tranh trên tất cả các lĩnh vực, góp phần xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới.
Ngày 30-4-1977, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam do bọn phản động Pôn-pốt tiến hành bắt đầu diễn ra quyết liệt, nhất là từ tháng 9 đến tháng 11-1977. Quân khu 7 vừa tổ chức lực lượng bảo vệ biên giới, vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh địa bàn.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, theo đề nghị của lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và thông suốt chỉ thị của trên, LLVT Quân khu 7 cùng các đơn vị bạn phối hợp với các lực lượng cách mạng Campuchia tiến hành cuộc phản công truy kích bọn Pôn-pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Ngày 7-1-1979, sau khi Campuchia hoàn toàn giải phóng Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang hướng Tây Nam tiếp tục giúp cách mạng Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng. Cùng với các Quân khu 5, 9 và một bộ phận lực luợng chủ lực của Bộ.
LLVT Quân khu 7 liên tục 10 năm giúp bạn làm tốt nhiệm vụ liên minh chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh và từng bước củng cố, xây dựng lực lượng đủ khả năng tự đảm đương nhiệm vụ của mình.
Nhờ có sự giúp đỡ to lớn, chí nghĩa, chí tình của Quân tình nguyện Việt Nam, bạn có đủ thế và lực để thực hiện một số giải pháp có lợi cho sự ổn định và phát triển của đất nước Campuchia. Từ khi thực hiện tổng tuyển cử với sự giám sát của Liên Hợp quốc (1991) đến nay, tình hình Campuchia ngày càng ổn định, an ninh biên giới được giữ vững, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của 2 nước và cho cả khu vực.
Sau khi Quân tình nguyện ở Campuchia rút quân về nước, LLVT Quân khu 7 kịp thời tăng cường triển khai thực hiện các nhiệm vụ củng cố, xây dựng lực lượng, thực hành huấn luyện không ngừng nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, cùng các địa phương xây dựng các khu vực phòng thủ và thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. LLVT Quân khu đoàn kết, phối hợp cùng các lực lượng Công an và Nhân dân các địa phương thực hiện các nhiệm vụ ngăn chặn, giải quyết các điểm nóng, kịp thời phát hiện, truy quét bọn Fulro và các nhen nhóm bạo loạn, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đảm bảo cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội của các tỉnh, thành vững chắc đi lên. Lực lượng vũ trang Quân khu 7 càng ngày càng gắn bó với Nhân dân các địa phương, phát huy truyền thống và kinh nghiệm trong quá khứ, ra sức xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân, trong đó chú trọng xây dựng các tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế và quốc phòng ngày càng phát triển vững chắc.
Quân khu 7 đã hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ được giao, trong đó nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt và xuất sắc, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biên giới, biển đảo thuộc địa bàn Quân khu, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Thế trận khu vực phòng thủ Quân khu được phát huy mạnh mẽ, kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh; ý thức và trách nhiệm với sự nghiệp quốc phòng an ninh của người dân được tăng cường, lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và Quân đội ngày càng vững chắc.
Quân khu 7 còn là đơn vị thực hiện nghĩa cử vì đồng bào, chăm lo tốt chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, phòng, chống tham nhũng lãng phí, thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội, đấu tranh quyết liệt làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch được tiến hành đồng bộ, hiệu quả. Thế trận lòng dân ngày càng vững chắc, dân tin Đảng, yêu mến chế độ, thương yêu đùm bọc. Đặc biệt, trong các đợt lũ lụt miền Trung, nhất là đại dịch Covid – 19, LLVT Quân khu 7 kịp thời ra quân chăm lo cho dân, giúp các tỉnh thành phía Nam trở lại cuộc sống bình thường mới.
LLVT Quân khu 7 xứng đáng với truyền thống “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng”. Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày thành lập LLVT Quân khu 7 (10/12/1945 – 10/12/2022), trong niềm tự hào, niềm vui tất thắng về LLVT Quân khu 7, lịch sử vẻ vang ấy khẳng định tầm nhìn chiến lược, nghệ thuật quân sự, sức mạnh tổng hợp của LLVT Quân khu 7 qua các thời kỳ, là bài ca hùng tráng của hôm nay và mãi mãi mai sau.
Thiếu tướng Trần Ngọc Thổ
nguyên Tham mưu trưởng Quân khu 7