Những bước đi đầu tiên
Đối mặt với một quân đội Trung Quốc ngày càng được tăng cường về sức mạnh, vùng lãnh thổ Đài Loan đã đặt ưu tiên cao việc mua tàu ngầm hiện đại cho lực lượng Hải quân. Do bị Trung Quốc cản trở mua tàu ngầm của nước ngoài và thiếu kinh nghiệm để phát triển tàu ngầm trong nước, Đài Bắc đã buộc phải tìm kiếm chuyên môn từ bên ngoài để hỗ trợ chương trình phát triển tàu ngầm của mình.
Hai chiếc tàu ngầm duy nhất của Hải quân Đài Loan
Phương án tự phát triển tàu ngầm của Đài Loan có thể theo phương pháp tịnh tiến, bắt đầu bằng mẫu tàu ngầm nhỏ; sau đó họ sẽ nâng cấp lên một mẫu tàu ngầm lớn hơn và có tính năng toàn diện hơn.
Chiếc tàu ngầm 794 là chiếc thường xuyên dùng để huấn luyện cho lực lượng thủy thủ tàu ngầm của Đài Loan
Việc xác định kích thước và khả năng của tàu ngầm là bước đi quan trọng đầu tiên trong chương trình phát triển tàu ngầm của bất kỳ quốc gia nào. Do Đài Loan thực sự không có khả năng răn đe xa bờ, nên trước mắt, việc đóng tàu ngầm có lượng giãn nước lớn hơn 1.200 tấn là không cần thiết; phương án khả thi là đóng mới tàu ngầm có lượng giãn nước từ 600 đến 800 tấn và các phương tiện lặn không người lái (UUV) nhỏ hơn, có thể cung cấp các yêu cầu ngăn chặn tàu hải quân Trung Quốc và khi cần thiết dùng tấn công đổ bộ.
Thách thức đối với Đài Loan cũng là thách thức của quốc gia khác khi tự lực phát triển tàu ngầm lần đầu tiên; ví dụ, tàu ngầm nội địa lớp Collins của Australia đã phải chịu đựng các lỗi kỹ thuật trong suốt thời gian phục vụ, những lỗi kỹ thuật rất khó khăn và tốn kém để khắc phục.
Hai chiếc tàu ngầm của Đài Loan thực hành huấn luyện trên biển
Kinh nghiệm tự phát triển tàu ngầm thành công hơn có lẽ là Iran, cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự như Đài Loan, Iran cũng bắt đầu với một mẫu thử nghiệm nhỏ, đích đến có thể lâu hơn, nhưng cũng chứa đựng ít rủi ro hơn trong quá trình phát triển.
Hải quân Iran thông báo sẽ khai thác tàu ngầm cỡ lớn đầu tiên được sản xuất trong nước của mình trước tháng 3/2019. Trước đó Iran đã chế tạo thành công tàu ngầm thông thường lớp Fateh có lượng giãn nước 597 tấn và được trang bị sáu ống phóng ngư lôi.
Sau hơn hai mươi năm phát triển công nghệ chế tạo tàu ngầm, cách tiếp cận của Iran bắt đầu với việc phát triển một mô hình tàu ngầm 10 tấn vào năm 1990; sau đó vừa làm vừa rút kinh nghiệm trong điều kiện bị bao vây, cấm vận ngặt nghèo của quốc tế, liên quan đến chương trình hạt nhân của nước này. Đến nay, họ đã đóng được tàu ngầm 600 tấn vào năm 2014; dự kiến năm 2019, Iran sẽ hạ thủy tàu ngầm 2.000 tấn, tương đương tàu ngầm lớp Kilo của Nga.
Những thách thức với của Đài Loan trong tự lực phát triển tàu ngầm
Chương trình phát triển tàu ngầm của Iran có thể là bài học cho khát vọng tàu ngầm của Đài Loan; nhưng có lẽ Đài Loan không cần phải mất đến 25 năm để có thể chế tạo được chiếc tàu ngầm đầu tiên, vì Đài Loan có nền kinh tế lớn hơn và cơ sở đóng tàu, công nghiệp và công nghệ phát triển cao hơn Iran.
Bên cạnh đó, Hải quân Đài Loan có hơn ba mươi năm kinh nghiệm trong việc vận hành, khai thác, bảo trì và sửa chữa tàu ngầm. Nhưng cũng giống như Iran, Đài Loan không có kinh nghiệm trong việc chế tạo tàu ngầm; một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều so với việc chế tạo tàu nổi.
Trong chế tạo tàu ngầm, việc chế tạo các thành phần thân tàu và động cơ đẩy phức tạp hơn so với các tàu nổi; thép dùng chế tạo tàu ngầm cũng là những loại thép đặc biệt, liên quan đến công nghệ luyện kim; những yếu tố này là thử thách đối với bất kỳ tham vọng của chương trình tàu ngầm của quốc gia nào.
Nhà lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn tham quan tàu ngầm của Hải quân Đài Loan
Những chiếc tàu đầu tiên của bất kỳ lớp tàu chiến nào, dù là tàu nổi hay tàu ngầm, sẽ gặp phải vô số các vấn đề nảy sinh về kỹ thuật; để phát hiện những lỗi, nhà sản xuất phải tiến hành thử nghiệm từ một đến hai năm để xác định những vấn đề đó; với tiềm lực khoa học và công nghệ hiện nay, Đài Loan hoàn toàn có thể giải quyết những lỗi kỹ thuật nảy sinh.
Khi đã lượng hóa được những rủi ro cũng như cách giải quyết; thì việc chế tạo tàu ngầm từ có lượng giãn nước từ 600 đến 800 tấn có thể bắt đầu. Rất có thể Đài Loan sẽ bắt đầu chế tạo tàu ngầm chiến đấu đầu tiên của họ vào năm 2025 và đến năm 2030, Đài Loan có thể có bốn chiếc tàu ngầm được đưa vào sử dụng.
Ưu điểm khác của phương pháp tịnh tiến là nguyên mẫu có thể được sử dụng để kiểm tra và thử nghiệm các công nghệ mới; ví dụ: Đài Loan có thể xem xét chương trình thử nghiệm động cơ đẩy độc lập (AIP) do trong nước tự chế tạo.
Do Đài Loan phải thường xuyên đối mặt với các mối đe dọa từ Trung Quốc, khả năng chế tạo tàu ngầm dùng động cơ AIP trước mắt có thể không cần thiết; nhưng về cơ bản lâu dài, Đài Loan vẫn cần phải phát triển các mẫu tàu dùng động cơ loại này.
Cuối cùng, nguyên mẫu có thể được sử dụng để hỗ trợ đào tạo kíp thủy thủ tàu ngầm chống tàu ngầm, mà không làm quá tải lực lượng tàu ngầm vốn đã mỏng, yếu của Đài Loan (hiện Đài Loan chỉ có 2 chiếc tàu ngầm cũ). Tương tự, nguyên mẫu có thể được sử dụng để phát triển và thử nghiệm các cảm biến và vũ khí mới trước khi lắp đặt chúng trong các tàu ngầm mới được chế tạo. Quan trọng hơn, Đài Loan có thể làm chủ công nghệ cho phép họ chế tạo các phương tiện lặn không người lái (UUV) có thể được sử dụng cho các nhiệm vụ trinh sát hoặc giám sát các hoạt động của Hải quân Trung Quốc xung quanh Đài Loan.
Tàu ngầm của Đài Loan thực hành huấn luyện
Tàu ngầm là một trong những vũ khí ngăn chặn hiệu quả nhất đối với hải quân đối phương; nó là nền tảng vũ khí tàng hình đầu tiên của lịch sử và vẫn là hệ thống vũ khí tàng hình nhất hiện nay. Chúng đại diện cho một mối đe dọa bất đối xứng mà không kẻ xâm lược nào có thể bỏ qua. Mỗi hạm đội, dù lớn đến mức nào, cũng phải giải quyết mọi mối đe dọa tàu ngầm trong kế hoạch của nó trước khi tiến lên.
Đài Loan có một ngành đóng tàu và nền công nghệ phát triển tương đối cao, nhưng họ phải đối mặt với sức mạnh vượt trội và bị bao vây cấm vận về vũ khí cũng như những công nghệ liên quan đến chế tạo vũ khí; Đài Loan cần tàu ngầm nhưng không có ai dám bán (kể cả tàu ngầm thành phẩm hay công nghệ chế tạo) do sức ép của Trung Quốc.
Việc Đài Loan tự lực cánh sinh để phát triển tàu ngầm là điều họ không hề mong muốn, nhưng trước sức ép và các mối đe dọa từ Hải quân Trung Quốc, Đài Loan vẫn phải tiến hành tự lực phát triển tàu ngầm của riêng mình; dẫu biết rằng, vấn đề này chứa đựng nhiều rủi ro.
Cuối cùng, không chỉ lo đối phó những với mối đe dọa từ hướng biển, Đài Loan còn phải đối mặt với những mối đe dọa của không quân, tên lửa đạn đạo và thậm chí là cả cuộc chiến trên không gian mạng của Trung Quốc; cùng với đó là việc cân đối ngân sách quốc phòng để phù hợp với quy mô của nền kinh tế; do vậy việc phát triển tàu ngầm đối với vùng lãnh thổ như Đài Loan là vấn đề không hề đơn giản và dễ dàng.