Kỳ 1: Ra đời thời thuộc Pháp
Cho đến thế kỷ XIX, nền kinh tế xã hội Việt Nam vẫn còn hết sức nghèo nàn lạc hậu. Sau khi hoàn thành về cơ bản công cuộc bình định về mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng, Đông Dương nói chung với quy mô lớn. Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hành động, trong đó ưu tiên xây dựng các cơ sở hạ tầng lớn tại Đông Dương nhằm phục vụ công cuộc cai trị và khai thác, như thiết lập hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng và sân bay. Dự án được phê duyệt và hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng được triển khai mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX. Tại Nam Kỳ, ưu tiên khai thác thuộc địa của thực dân Pháp tập trung ở hai ngành chính: nông nghiệp và công nghiệp. Đó là lúa gạo ở các tỉnh miền Tây; cao su, hồ tiêu ở các tỉnh miền Đông và các ngành khai thác chế biến như gỗ củi, xay xát gạo, nấu rượu... ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Tính từ năm 1888 đến năm 1920, số tiền các tập đoàn tư bản tài phiệt Pháp đầu tư vào Việt Nam là 500 triệu Francs vàng (FRF), từ năm 1924 đến năm 1929 là 4 tỉ FRF.
Để phục vụ cho nhiệm vụ khai thác thuộc địa nêu trên và đàn áp phong trào nổi dậy của dân chúng, Pháp chủ trương phát triển hàng không. Ngày 13-7-1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ký nghị định thành lập Sở Hàng không Đông Dương (Service de I’Aviation de I’Indochine) làm nhiệm vụ “tổ chức trường huấn luyện, nghiên cứu các tuyến đường hàng không, thiết lập sân bay và đường băng, đặt quy chế về việc sử dụng máy bay trong các hoạt động dân sự, quân sự trên toàn cõi Đông Dương”. Từ thập niên thứ hai của thế kỷ XX, hàng loạt sân bay được thực dân Pháp xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam, nhất là ở những vùng xa trung tâm, nơi đường thủy, đường bộ gặp nhiều khó khăn và những vùng đem lại nhiều nguồn lợi kinh tế. Tại Nam Kỳ, sân bay được xây dựng ở các đô thị lớn như Liên Khương (Đà Lạt), Phụng Dực (Buôn Ma Thuột), Trà Nóc (Cần Thơ), Cỏ Ống (Côn Đảo), Dương Đông (Phú Quốc)… và một số đồn điền cao su lớn.
Tại Sài Gòn, năm 1919, chính quyền thực dân thành lập phi đội Nam Kỳ và triển khai xây dựng sân bay. Sân bay chỉ có một đường hạ cất cánh bằng đất, xung quanh trồng cỏ, tọa lạc trên gò đất cao cách tòa bưu điện Sài Gòn 8 km về phía bắc, thuộc làng Tân Sơn Nhất, phủ Tân Bình, (về sau thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định). Vì phần lớn đất của sân bay thuộc làng Tân Sơn Nhất nên lấy luôn địa danh Tân Sơn Nhất làm tên của sân bay.
Sau khi xây dựng xong sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 19-4-1921, Pháp khai trương tuyến bay thẳng Hà Nội - Sài Gòn, thời gian một lượt bay là 8 giờ 30 phút. Trước nhu cầu vận chuyển (cả dân sự và quân sự) ngày một lớn, năm 1930, chính quyền thực dân muốn mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất nhưng giá đất xung quanh sân bay đã cao vọt, không đủ ngân sách để mua thêm. Người Pháp nghĩ tới việc tìm một khu đất lớn hơn để xây dựng sân bay mới, khu đất dự kiến xây sân bay mới nằm ở Cát Lái (quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định). Tuy nhiên, công việc đang ở giai đoạn khảo sát lập dự án thì gặp lúc kinh tế thế giới khủng hoảng, tài chính Pháp kiệt quệ, việc xây dựng sân bay mới cần khoản đầu tư lớn, nên ý định làm sân bay mới phải hủy bỏ. Chính quyền Pháp quay lại việc chi tiền mua đất mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất.
Ở vào giữa khu vực tứ giác với bốn thủ đô quan trọng của Đông Nam Á, có nhiều khách qua lại, án ngữ cửa ngõ thông ra Thái Bình Dương, các đường hàng không lớn quốc tế bắt đầu nghĩ đến việc dừng lại ở Sài Gòn. Năm 1933, sân bay Tân Sơn Nhất mở đường bay quốc tế đầu tiên đến Pháp. Ngày 28-12-1933, chiếc máy bay của hãng hàng không Pháp (Air France) tuyến Paris - Sài Gòn hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất sau đúng một tuần hành trình (máy bay chỉ bay vào ban ngày). Sau đó, nhiều tuyến bay quốc tế khác được mở. Đến năm 1937, toàn quyền Đông Dương Joseph Jules Brévié cho thành lập Sở Hàng không dân dụng Đông Dương thay thế cho Sở Hàng không dân sự lo việc khai thác các chuyến bay. Để tiếp tục mở rộng sân bay, ngày 4-3-1940, Tổng thống Pháp Albert Lebrun ban hành sắc lệnh trưng dụng đất của các hộ nông dân khu vực phụ cận thuộc các làng Tân Sơn Nhì, Hạnh Thông Tây, Phú Nhuận (vẫn thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định). Sân bay Tân Sơn Nhất với đường hạ cất cánh dài 1500 m bằng đất đỏ, trở thành cảng hàng không lớn nhất ở Đông Dương lúc bấy giờ.
Còn nữa