Tiểu đoàn 2 của Ba Kiên được trung đoàn trưởng Bảy Ga giao nhiệm vụ giải phóng Xuân Thới Thượng là điểm nút đầu tiên án ngữ bảo vệ phía tây Sài Gòn, gồm 3 đối tượng: Phân chi khu bao gồm bộ máy tề điệp, cuộc cảnh sát, dân vệ, phòng vệ dân sự, đồn Nhà Tô có một đại đội bảo an 70 tên trú đóg và một tiểu đoàn “thiếu” biệt động quân mới tăng cường đến, khoảng 200 tên. Lực lượng địch tại đây đông gấp đôi quân số tiểu đoàn 2 của ta.
3 giờ 40 phút, mũi chủ công nổ súng vào đồn Nhà Tô, nghi binh đánh lừa địch, tạo điều kiện cho đơn vị nhanh chóng xông lên chiếm mục tiêu. Trong lúc mũi 1 bị địch chặn lại kháng cự quyết liệt thì mũi 2 và 3 bất ngờ vận động đánh lướt sườn chia cắt đội hình địch, kết hợp dùng loa kêu gọi chúng đầu hàng.
Trong vòng 30 phut đại đội 1 đã làm chủ trận địa, bắt tù binh thu vũ khí. Nhân dân phấn khởi tiếp tay hướng dẫn đơn vị bắt thêm 40 tên lẩn trốn ra nộp vũ khí. Chuyển sang vây ép đồn Nhà Tô, Ba Kiên lệnh cho đại đội trưởng Nguyễn Văn Nhiên bao vây nhưng vẫn mở một cửa cho địch thoát ra để tiếp tục tiêu diệt. Với chiến thuật này, đơn vị đã kết thúc trận đánh vào lúc 14 giờ 40’ ngày 29/4/1975, cắm cờ giải phóng trên nóc đồn. Đây là vị trí cuối cùng trong khu vực Xuân Thới Thượng ta đánh chiếm xong.
Tại đây, tiểu đoàn tiến hành hỏi cung tên tù binh trung úy mới lòi ra bọn chiến đoàn 46, sư 25 ngụy đang lẩn trốn dưới đồng bưng An Hạ. Cần phải gọi chúng ra hàng và tránh đổ máu lúc này. Ba Kiên quyết định thế và chỉ vào bộ đàm của tiểu đoàn, bảo tên trung úy:
- Anh là người được cách mạng cứu sống, hãy khai báo thành thực và gọi ngay chiến đoàn 46 ra hàng. Đây là thời cơ lập công may mắn của anh.
Tên trung úy khai có khoảng 1800 quân do đại tá Tôn Thất Soạn, tỉnh trưởng Hậu Nghĩa chỉ huy đang cố thủ ngoài bưng.
Ba Kiên ra lệnh :
- Anh gọi ngay đi!
Tên trung uy gọi nhưng không thấy đầu kia lên máy. Anh giục hắn gọi tiếp và lát sau bắt được tín hiệu. Chúng nghi ngờ hỏi:
- Ra hàng có bị giết không?
Ba Kiên bảo:
- Anh nói với tỉnh trưởng là bọn xâm lược Mỹ, cách mạng còn tha thì các anh có gì phải sợ. Chúng tôi chiến đấu nhằm đánh thắng Mỹ chứ không phải thắng các anh. Người Việt Nam không bắt giết lẫn nhau!
Tên trung úy lo sợ:
- Ngài tỉnh trưởng muốn gặp Bộ chỉ huy mặt trận.
Ba Kiên bảo:
- Chúng tôi là Bộ chỉ huy mặt trận đây, có gì nói đi, không còn nhiều thời gian đâu.
- Thưa chỉ huy, cho chúng tôi suy nghĩ 15 phút.
- Không được, lâu quá! Cho các anh 5 phút nếu không hậu quả không lường được. Các anh có nghe tiếng súng quân giải phóng nổ đều khắp chung quanh Sài Gòn không?
Ba phút sau, chúng lên máy:
- Vậy thể thức ra hàng như thế nào?
- Kéo cờ trắng đi thành ba hàng!
- Còn vũ khí, máy móc, quân dụng thì sao?
Ba Kiên suy ghĩ nhanh và quyết định để chúng mang toàn bộ vũ khí ra theo.
Quả hiên, bọn tàn binh lên đầu hàng trật tự, kỷ luật: chất súng đạn, máy móc, bản đồ ... vào nơi ta quy định. Ít phút sau, các đống vũ khí, quân trang quân dụng đã cao quá đầu.
Theo lệnh của tiểu đoàn trưởng Ba Kiên, từ cấp đại úy trở lên bước ra đường. Đi đầu là đại tá tỉnh trưởng, quân phục nghiêm chỉnh, theo sau là 2 trung tá, 4 thiếu tá và cả chục đại úy tùy tùng của ban chỉ huy chiến đoàn.
Chính ủy trung đoàn Năm Lăng dõng dạc nói với tất cả tù binh:
- Quân giải phóng sắp vào Sài Gòn. Với chính sách nhân đạo của mặt trận, chúng tôi ra lệnh phóng thích toàn bộ các anh. Các anh hãy nhanh chóng ra trình diện chính quyền cách mạng, trở về với nhân dân. Nhưng trước mắt không được đi về hướng Sài Gòn!
Quân ngụy sung sướng, lột áo mũ, bi đông tung lên trời, reo hò không ngớt:
- Hoan hô quân giải phóng!
- Cách mạng muôn năm !
- Giải phóng rồi !
Cuộc đối thoại ngắn đầy thuyết phục của người tiểu đoàn trưởng đã hòa giải được tình huống gay cấn đối với 1860 quân ngụy, không tốn một phát đạn.
Cánh cửa phía tây mở toang. Tối h6m đó, đoàn xe tăng T54 dẫn đầu đ0oàn 232 như vũ bão từ hướng tây tiến thẳng vào Sài Gòn trong niềm hân hoan của đồng bào vùng 18 thôn Vườn Trầu, Hóc Môn – Bà Điểm.
Từ trận đánh cuối cùng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Phan Trung Kiên tiếp tục trải qua nhiều cương vị lãnh đạo trong quân đội: Chỉ huy trưởng Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Bộ Tư lệnh TP.HCM), Tư lệnh Quân khu 7. Trước khi nghĩ hưu đồng chí là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng,Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 6-11-1978, đồng chí được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.