Đây là lời căn dặn, nhắc nhở của Bác viết trong “Thư gửi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ”, ngày 23 tháng 11 năm 1951, nhân kỷ niệm Ngày Khởi nghĩa Nam Bộ (23/11/1940).
Cuộc khởi nghĩa Nam Bộ ngày 23 tháng 11 năm 1940 tuy không thành công, nhưng đã để lại tấm gương oanh liệt, thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của đồng bào các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Đặc biệt là Lời căn dặn, nhắc nhở của Bác trong thời điểm này như tiếp thêm sức mạnh, cổ vũ động viên cán bộ, chiến sĩ cả nước nói chung, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ nói riêng trường kỳ kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng đất nước.
Thấm nhuần lời nhắc nhở của Bác, với tinh thần và ý chí quật cường, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ tiếp tục đứng lên, cùng với đồng bào và chiến sĩ cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh đuổi đế quốc Mỹ, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Thực tế đã chứng minh, dù bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ cùng với quân và dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã anh dũng chiến đấu đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng quê hương, thống nhất nước nhà và bảo vệ toàn vẹn độc lập, tự do của Tổ quốc, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Nam bộ thành đồng, đi trước về sau”.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động; tình hình Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen các thế lực thù địch gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền... để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung, quân và dân Nam bộ nói riêng không ngừng mài sắc cảnh giác, phát huy cao độ nội lực, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững và tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và Quân đội các nước theo truyền thống của Đảng, của dân tộc và của Quân đội ta; kết hợp sức mạnh thời đại, tạo dựng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Học tập và làm theo lời căn dặn của Bác Hồ năm xưa, Quân đội nhân dân Việt Nam phải chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, chất lượng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng - an ninh - kinh tế - đối ngoại. Chú trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa, tạo thế trận quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở các địa bàn chiến lược. Tổ chức các lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới. Tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.