74 năm trôi qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền trong cả nước. Gần một thế kỷ trôi qua, nhưng Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 vẫn còn vang vọng mãi. Hàng trăm cuốn sách, hàng ngàn bài viết, nhiều hội nghị, hội thảo nghiên cứu, tổng kết, nhiều công trình khoa học ở Việt Nam và ở nhiều nước trên thế giới, bên cạnh việc ca ngợi, phân tích, lý giải nhiều chi tiết nội dung ý nghĩa lịch sử của “Tuyên ngôn Độc lập” đã làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực, chúng ta càng thấy rõ hơn trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Tuyên ngôn Độc lập”.
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn một số người không hiểu hoặc cố tình không hiểu đưa ra những quan điểm sai trái, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử hòng phủ nhận thành quả to lớn, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng với những suy diễn mơ hồ nhằm hạ thấp, phủ nhận giá trị và ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập.
Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mà còn là văn bản pháp lý khẳng định một nhà nước pháp quyền với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do nhân dân và vì nhân dân và vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn thế nữa “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2-9-1945 còn là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước Việt Nam. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén với giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển. Một kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc.
Không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của mình bằng những lý lẽ bất hủ của tổ tiên người Mỹ và người Pháp được trích dẫn trong hai bản tuyên ngôn của họ. Hai bản tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp chỉ đơn thuần đề cập đến quyền con người như một tất yếu của tạo hóa thì Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ mẫu mực, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã phát triển và nâng lên thành quyền dân tộc phải được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc. Con người trong các dân tộc có được bình đẳng, tự do, hạnh phúc thì dân tộc đó mới được xem là dân tộc độc lập, tự do, hạnh phúc. Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nếu quyền con người là lẽ tự nhiên thì quyền của mỗi dân tộc cũng là lẽ tự nhiên. Tất nhiên, để hiện thực hóa được những quyền, những chân lý, lẽ phải: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Người chỉ rõ: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận này vừa khéo léo lại vừa cương quyết. Khéo léo vì Bác cho người đọc thấy rõ sự tôn trọng của mình đối với bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích và nhấn mạnh điều này để phản bác, tố cáo và vạch trần sự xâm lược, thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã chà đạp lên các quyền dân tộc cơ bản của các dân tộc trên thế giới. Đây là một nội dung rất căn bản, không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa thời đại, đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Từ đó tới nay các nước trên thế giới đứng lên đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình. Đây là điều cần được lý giải sâu sắc trên cơ sở thực tiễn và khoa học:
Trước tiên, cần phải biết: Chủ tịch Hồ Chí Minh, là Danh nhân văn hóa thế giới đã được UNESCO tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã thể hiện. Đây là những thành quả văn hóa của nhân loại, là dấu mốc lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó đã khẳng định những quyền cơ bản của con người. Đó là “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”…
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Vì đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã giương cao.
Ba là, cả hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp đều khẳng định quyền con người “mọi người đều sinh ra bình đẳng”, từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội về trí tuệ của Người được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó, tới nay các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình. Có thể thấy, với thiên tài của trí tuệ, tầm nhìn chiến lược của Bác đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm, tư duy riêng của mình về quyền con người và trên thực tế đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ 1946 đến nay.
74 năm trôi qua, tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thách thức, thực hiện lời thề với Người trong ngày lễ độc lập “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Với ý nghĩa đó, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sâu sắc.
Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn dân tộc ta cần đoàn kết một lòng với một quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Tuyên ngôn Độc lập đã và mãi mãi khơi nguồn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.