Xe tăng tiêu diệt mục tiêu.
Tên gọi ban đầu Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Chiến thuật vận dụng lối đánh du kích kết hợp nhuần nhuyễn mưu lược binh pháp, Quân đội ta đã tạo nên sức mạnh tổng hợp liên tiếp đánh bại hai đế quốc to, sừng sỏ nhất đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sau này tập đoàn Pôn Pốt Iêng Xa Ri biên giới Tây Nam và quân xâm lược bành trướng Bắc Kinh, biên giới phía Bắc hoàn toàn thắng lợi.
Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Nó là khởi nguồn của sự chiến đấu hy sinh, là thước đo của lòng trung dũng kiên cường, mưu trí, anh hùng và quả cảm của hàng triệu con dân nước Việt buổi đầu với vũ khí thô sơ, Quân đội còn non yếu kinh nghiệm. Được tôi rèn trong chiến tranh, nghệ thuật quân sự linh hoạt được vận dụng trong các lối đánh du kích, mưu lược, thần tốc, đánh nhanh thắng nhanh, dựa vào sức mạnh tổng hợp từ nhân dân ủng hộ mọi mặt hậu cần. Mở màn trận Phay Khắt, Nà Ngần đã làm nức lòng nhân dân, tạo niềm tin tất thắng của Quân đội. Hai trận đánh Phay Khắt, Nà Ngần tuy quy không lớn, nhưng ý nghĩa rất to lớn. Đây là hai trận đánh có tổ chức, có kế hoạch, có công tác tham mưu, có công tác chính trị, công tác hậu cần. Hai trận đánh tiêu diệt nhanh gọn, diễn ra cách nhau mười giờ, ở hai điểm cách nhau khoảng 15km. Đây là hai trận đầu ra quân của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân – Đội quân chủ lực của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, dưới sự tổ chức, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Những thắng lợi này báo hiệu cho toàn dân tiến lên trên con đường vũ trang đấu tranh để chuẩn bị cho thời kỳ đứng lên giành lấy chính quyền, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Đối với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, thắng lợi của hai trận đánh đã tạo niềm tin tất thắng cho các chiến sĩ giải phóng, đặc biệt để lại cho toàn đội những bài học kinh nghiệm quý báu đầu tiên cả về chính trị và quân sự sau này.
Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07 tháng 5 năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, Quân đội ta đã làm tan rã bộ máy chính quyền phong kiến và đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi, kết thúc chiến tranh trên bán đảo Đông dương, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Năm 1955 – 1963, ta củng cố lực lượng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương lớn sẵn sàng chi viện cho miền Nam tiếp tục chiến đấu chống xâm lược Mỹ thống nhất Tổ quốc.
Từ năm 1964 – 1975, miền Bắc chi viện quân, lương cho miền Nam đánh đế Mỹ cứu nước và chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Từ một Quân đội buổi đầu hình thành với 3 tiểu đội du kích, vận dụng chiến thuật, chiến lược tài tình, kỷ luật nghiêm minh, bí mật, nhất quán hành động. Thông qua các cuộc chiến, Quân đội Nhân dân Việt Nam lớn mạnh, trưởng thành, phát triển vượt bậc với quy mô hiện đại, vũ khí tối tân, ngang tầm với thế giới, sẵn sàng chống trả kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất. Quân đội ta đã liên tiếp đẩy lùi bóng quân xâm lược trên toàn lãnh thổ, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, kết thúc với Chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại mùa Xuân năm 1975.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả nước vui mừng miền Nam giải phóng, Bắc - Nam thống nhất thành một dải, non sông thu về một mối.
Năm 1977 – 1979, bọn phản động Pôn pốt Iêng xơ ri đã gây ra bao cảnh lầm than, nạn diệt chủng, bắt bớ, giết người vô tội diễn ra ở biên giới phía Nam. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của Tổ quốc diễn ra ác liệt như bản thiên anh hùng ca. Bằng sức mạnh tổng hợp toàn quân, toàn dân, Quân đội Nhân dân Việt Nam với nghĩa vụ quốc tế đã tiêu diệt gọn bọn diệt chủng, góp phần cùng nước bạn Campuchia bình ổn nền hòa bình, độc lập tự do trong khu vực. Sự kiện ngày 17/2/1979, nhà cầm quyền Trung Quốc phát động cuộc tiến công quy mô lớn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân và dân Việt Nam anh dũng chiến đấu, giáng trả quyết liệt. Chịu nhiều tổn thất mà chưa đạt được mục tiêu ban đầu đề ra, đồng thời bị dư luận thế giới lên án mạnh mẽ do tính chất phi nghĩa của cuộc tiến công, phía Trung Quốc rút hết quân về nước vào ngày 18/3/1979.
Cuộc chiến đấu này một lần nữa khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, góp phần khẳng định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, nhất là trong việc nắm bắt tình hình, đánh giá đúng khả năng hành động của đối phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt sẵn sàng đối phó; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Ngày nay, Quân đội chính qui hiện đại sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của kẻ thù, nếu họ cố tình gây ra. Cuộc chiến nhất định sẽ không khoan nhượng trên trọng điểm Biển Đông Việt Nam để bảo vệ vùng biển, vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc.