(QK7 Online) - Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph. Ănghen soạn thảo được công bố trước toàn thế giới vào ngày 24 tháng 2 năm 1848 là tác phẩm vĩ đại đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác gồm ba bộ phận hợp thành: Triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học; là văn kiện Cương lĩnh đầu tiên của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới tiến hành cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Cho đến nay, dù gần 170 năm đã trôi qua, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi thảo vẫn rực sáng với tư tưởng vĩ đại của nó - tư tưởng về sự giải phóng toàn bộ xã hội, thủ tiêu mọi áp bức, bất công. Bất kể ai, bất cứ lúc nào, dù đứng về phía này hay phía khác, ủng hộ hay phản đối Tuyên ngôn cũng đều phải thừa nhận một sự thật lịch sử không gì có thể chối cãi được. Đó là Tuyên ngôn đã thức tỉnh, tập hợp giai cấp công nhân và những người lao động làm thuê khác thành một lực lượng to lớn chống sự áp bức, bóc lột, giành được những quyền lợi và quyền lực ngày càng quan trọng.
Bản Tuyên ngôn độc lập là áng văn bất hủ góp phần làm nên
cốt cách Hồ Chí Minh và tâm hồn dân tộc Việt Nam
Ảnh: Tư liệu
Nếu như giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa cộng sản còn là một “bóng ma” ám ảnh châu Âu, như các thế lực của châu Âu cũ từng rêu rao, thì với sự ra đời của Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, cái “bóng ma” ấy đã thực sự trở thành một thế lực cụ thể, và cái thế lực ấy cứ ngày một lớn dần lên, trở thành những phong trào cách mạng hừng hực khí thế, những cuộc cách mạng bùng nổ dữ dội và cả những quyền lực nhà nước được thiết lập trên hành tinh. Từ đứa con đầu lòng là Công xã Pa-ri năm 1871, đến sự ra đời của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, rồi đến thắng lợi của hàng loạt cuộc cách mạng kiểu mới ở cả châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh dẫn đến sự thành lập các nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới thì cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội thế giới - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa - trải qua một thời kỳ chiến tranh lạnh dai dẳng, đã không dẫn tới sự thắng lợi lớn hơn nữa, mà trái lại, là sự thất bại tạm thời và trên diện rộng của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, đi liền với nó là thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới.
Điều cần nhận rõ, đây không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản mà là sự sụp đổ của những mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể do những sai lầm và khuyết điểm trong vận dụng máy móc các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, cộng với sự phá hoại về nhiều mặt của các thế lực đế quốc chủ nghĩa, tất cả đã dẫn đến sự sụp đổ như chúng ta đã từng thấy.
Hiện nay, mặc dù sự sụp đổ của Liên Xô, của các nước XHCN Đông Âu đã để lại cho phong trào cách mạng, tiến bộ một sự hẫng hụt nhưng không vì thế mà CNXH mất đi sức hút, sức lôi cuốn của mình. Rút kinh nghiệm từ sự sụp đổ của Liên Xô và Đông âu, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, như Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba…đang tiến hành cải cách, đổi mới rất mạnh mẽ, đúng hướng và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử, trở thành nguồn cảm hứng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từng bước phục hồi. Ở sân sau của Mỹ, hàng loạt nước Mỹ La-tinh đã tuyên bố đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Còn ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, phong trào cộng sản và phong trào công nhân vẫn không ngừng mở ra những cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột bất công của giai cấp tư sản.Và ở đó, chủ nghĩa tư bản hiện đại, sở dĩ tiếp tục tạo được sức sống mới là bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân tiếp nhận sự công kích của chủ nghĩa xã hội và sửa đổi một phần những khuyết tật và lực cản trong lòng chúng.
Cái nghịch lý trong giai đoạn hiện nay là, mặc dù cách mạng đang gặp khó khăn, rất nhiều học giả không hề đứng trong hàng ngũ những người mácxít, đều khách quan nhìn nhận rằng học thuyết Mác vẫn là đỉnh cao của trí tuệ loài người, và rằng học thuyết đó có sức sống dồi dào không chỉ trong các thế kỷ XIX, XX đã qua mà cả trong thế kỷ XXI này nữa. Trong khi có một số người, từng mang danh cách mạng nay dao động trước tình hình đang biến đổi, đã trở cờ, lớn tiếng công kích chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, công khai “sám hối” và đã “chia tay ý thức hệ”, rốt cuộc rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cơ hội, lặp lại như vẹt những gì các “hiệp sĩ” tư bản phản động đã từng nói và đang nói.
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản ra đời giữa lúc chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức cao, giữ quyền thống trị ở Châu Âu và bắt đầu bành trướng thế lực sang châu Phi và châu Á bằng các cuộc chinh phục. Vào thời điểm này, Tuyên ngôn không chỉ là bản cáo trạng đanh thép với chủ nghĩa tư bản mà còn là hồi kèn xung trận cho những cuộc chiến đấu cách mạng để giải phóng các giai cấp cần lao, các dân tộc bị áp bức và cả loài người. Nhiều cuộc cách mạng nổ ra và giành thắng lợi mà cao trào là sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai, như đã nói ở phần trên. Vì vậy, hoàn toàn đúng khi chúng ta nói Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tuyên ngôn của thời đại. Những nguyên lý C.Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đối với cách mạng Việt Nam, Tuyên ngôn nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung cùng với Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam dẫn đường. Trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vạch ra đường lối chiến lược giải phóng dân tộc bằng cách mạng vô sản mà Mác và Ăngghen đã chỉ ra trong Tuyên ngôn; đã vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của Mác để xây dựng đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH; đã thấm nhuần tinh thần biện chứng của Tuyên ngôn để năng động, sáng tạo trong xây dựng thành công xã hội mới và trong công cuộc đổi mới hơn ba thập kỷ qua. Vì vậy, việc nắm vững tư tưởng cách mạng vô sản triệt để, tinh thần nhân đạo cộng sản cao cả và phương pháp biện chứng khoa học của Mác - Ăngghen vĩ đại trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bất hủ, là cơ sở để chúng ta xác định rõ mục tiêu, con đường và phương pháp của cách mạng Việt Nam cả trước mắt và lâu dài. Trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch đang ráo riết chống phá cách mạng Việt Nam bằng âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, hiện nay việc tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá những vấn đề có tính chất định hướng và phương pháp luận mà Tuyên ngôn đã đặt ra là hết sức cần thiết cho cách mạng nước ta. Điều đó cũng có nghĩa, Tuyên ngôn đã, đang và sẽ mãi mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, cả hiện tại và tương lai.
Đinh Thị Thủy Bình - Nguyễn Duy Khắc
Trường Sĩ quan Lục quân 2