Thực chất của cuộc hành quân của Mỹ - ngụy trong chiến dịch này là mượn cớ nhằm đánh lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ phía sau. Vì tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia là một trong những địa điểm trú quân, kho tàng Mỹ - ngụy thực hiện tiến công hai gọng kìm (trước mặt và sau lưng). Tuyến biên giới này từ thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ - ngụy sau này đã được Quốc vương Xi - ha - núc ưu tiên tạo thuận lợi cho quân và dân ta ở các tỉnh biên giới trong hai cuộc chiến tranh.
Trên bán đảo Đông Dương, Campuchia, Lào giải phóng vào tháng 3 năm 1975 và ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng thống nhất Tổ quốc.
Bước sang năm 1976, tình hình trở nên phức tạp, trên đất Lào bọn phỉ “Vàng pao” phá hoại. Trên đất Campuchia ra mắt tên nước là “Campuchia dân chủ” và xây dựng quân đội Campuchia. Dân số Campuchia lúc đó chỉ có 8 triệu dân mà tập đoàn Pôn pốt Iêng Xari đã xây dựng 23 sư đoàn bộ binh, lục quân và binh chủng (trừ không quân), chiếm 47% dân số Campuchia. Họ bố trí dọc biên giới Việt Nam - Campuchia đối diện từ Bình Phước đến An Giang của Việt Nam.
Ở Việt Nam, sau khi vừa mới được giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, ta phải còn đương đầu với nhiều phức tạp khó khăn, phải dùng quân quản để quản lý và xây dựng chính quyền mới. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, phức tạp do hậu quả của chiến tranh, nên lực lượng Quân đội thu gọn và giải quyết chính sách cho số quân nhân nguyện vọng về quê đoàn tụ gia đình. Một số còn lại thì đi xây dựng vùng kinh tế mới ở các vùng rừng núi chưa được khai hoang phục hóa do cuộc chiến tranh, bom mìn còn sót lại.
Quân khu 7 cũng là một vùng trọng điểm rộng lớn thực hiện chủ trương này. Trung đoàn 88 cũng tham gia nhiệm vụ này, ngoài nhiệm vụ kinh tế còn có nhiệm vụ xây dựng và củng cố Quân đội, sẵn sàng chiến đấu và tuyển thanh niên đến tuổi nghĩa vụ quân sự ở miền Nam vào Quân đội.
Tháng 2 năm 1977, nhận định tình hình quân sự trên tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia sẽ có chiến tranh xảy ra nên Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo củng cố và bố trí các đơn vị đủ quân dọc biên giới sẵn sàng xử lý những trường hợp bất ngờ. Biên giới Quân khu 7 có 3 trung đoàn đủ quân là Trung đoàn bộ binh 201, Trung đoàn bộ binh 16, Trung đoàn bộ binh 205. Tôi được điều về làm Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng Trung đoàn 201 bố trí trên hướng biên giới huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
Đêm 23/9/1977, quân đội Pôn pốt Iêng Xari ồ ạt tiến quân qua biên giới và tàn sát đồng bào ta rất dã man. Lực lượng ta rất bình tĩnh, theo sát diễn biến. Ta nổ súng ngăn chặn và giải quyết hậu quả cho nhân dân.
Bước sang năm 1978, lực lượng yêu nước Campuchia thấy việc làm của Pôn pốt là sai trái, có tội với dân tộc Campuchia, cách hành xử bạo tàn, mang tính chất diệt chủng nên họ đã bỏ hàng ngũ sang Việt Nam để tìm cách cứu nguy cho dân tộc. Điển hình như ông Heng Samrin, ông Chea Sim, ông Hun Sen. Ta giúp bạn tổ chức chính quyền nhân dân mang tên “Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia” có bộ máy cai quản quốc gia, tổ chức các đơn vị Quân đội.
Trong năm 1978, ta chỉ tập trung lo cho lực lượng này. Quân đội lấy tên là Quân đội cách mạng Campuchia. Trong thời điểm Hoàng thân Xi - ha - núc và Hoàng gia Campuchia vẫn bị giam cầm ở Hoàng cung. Quân đội cách mạng Campuchia đã lớn mạnh, lại có chính quyền cứu nước Campuchia với sự giúp đỡ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chính quyền và Quân đội cách mạng cứu nước Campuchia ra mắt và đã mở cuộc phản công chiến lược thần tốc tiến quân vào Campuchia để tiêu diệt chính phủ phản động Campuchia. Khi Quân đội cách mạng Campuchia và Quân đội nhân dân Việt Nam tiến vào đất Campuchia, đoàn quân đi đến đâu cũng nhận được sự vui mừng đón tiếp của nhân dân. Quân đội Pol Pốt tháo chạy vứt bỏ vũ khí dọc đường, chính quyền Pol Pốt tan rã bỏ chạy sang đất Thái Lan. Nhà vua bị chúng ép đi theo và sống lưu vong ở Bắc Triều Tiên.
Sau chiến thắng của Quân đội cách mạng Campuchia có sự hỗ trợ của Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi được Bộ Quốc phòng điều ra làm Trung đoàn trưởng một Trung đoàn bộ binh đóng quân ở Nam mặt trận Lạng Sơn tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.
Năm 1981, tôi trở lại chiến trường Campuchia và Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nhân dân Campuchia mong đợi. Tuy đã giành chiến thắng nhưng chính quyền và Quân đội cách mạng Campuchia còn non trẻ nên cần Quân đội nhân dân Việt Nam ở lại đất bạn, xây dựng lực lượng, chính quyền cơ sở, cùng sát cánh kề vai giúp đỡ mọi mặt để giữ vững chính quyền và bảo vệ thành quả cách mạng Campuchia.
Suốt 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế (1979 - 1989) gắn bó nghĩa tình trách nhiệm với dân tộc Campuchia, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đất nước Campuchia ngày nay hòa bình thống nhất và phát triển hùng mạnh, sự trường tồn của một đất nước hòa bình, độc lập, tự do còn có sự đóng góp máu xương của dân tộc Việt Nam.
Thủ tướng Chính phủ Campuchia Hun Sen luôn khẳng định: “Quân đội Nhân dân Việt Nam là Quân đội của nhà Phật, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đổ xương máu cùng chính quyền, Quân đội Campuchia để cứu nguy cho dân tộc Campuchia. Tình đoàn kết hữu nghị, tình anh em của hai nước Việt Nam, Campuchia gắn kết như là máu thịt mãi mãi không thể tách rời. Sự từ bi, độ lượng của dân tộc Việt Nam, sự hy sinh của nhân dân Việt Nam về vật chất lẫn tinh thần, máu xương của chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đổ xuống đất nước Campuchia để cùng đánh đuổi kẻ thù xâm lược trên bán đảo Đông Dương giành lại độc lập, tự do cho dân tộc Campuchia là minh chứng lịch sử xuyên suốt không thể phai mờ”.