Phố lạ mà quen ta giang hồ
Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ
Chẻ củi trèo thang với giặt đồ
Giang hồ đâu bận lo tiền túi
Ngày đi ta chỉ có tay không
Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi
Mây trắng trời xa trắng cả lòng
Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn
Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
Gối trang sách cũ nằm nghĩ bụng
Cười xưa Dương Lễ với Lưu Bình
Giang hồ có buổi ta ngồi quán
Quán vắng mà ta chửa chịu về
Cô chủ giả đò nghiêng góc ghế
Đếm thấy thừa ra một góc si
Giang hồ mấy bận say như chết
Rượu sáng chưa lưa đã rượu chiều
Chí cốt cầm ra chai rượu cốt
Ừ thôi trời đất cứ liêu xiêu
Giang hồ ta chẳng hay áo rách
Sá gì chải lược với soi gương
Sáng nay mới hiểu mình tóc bạc
Chợt tiếng trẻ thưa ở bên đường
Giang hồ ba bữa buồn một bữa
Thấy núi thành sông biển hóa rừng
Chân sẵn dép giầy trời sẵn gió
Ngựa về ta đứng bụi mù tung
Giang hồ tay nải cầm chưa chắc
Hình như ta mới khóc hôm qua
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà
Giang hồ - nỗi niềm lay động trái tim
Nhà thơ Phạm Hữu Quang (1952-2000) quê ở An Giang, Hội viên Hội Văn nghệ An Giang chưa hẳn đã được nhiều người biết đến. Nhưng bài thơ “Giang hồ” của ông lại khá nổi tiếng. Ông qua đời ở tuổi 49, nhưng thơ văn của ông lại có sống sức vượt thời gian. Vậy điều gì làm nên sức sống cho bài thơ này? Thơ giang hồ thường là kết quả của những chuyến xê dịch. Đã quyết chí đi giang hồ là xem như tách bạch khỏi đời thường tù túng để khí phách thỏa chí tang bồng. Có khi đi không phải là việc gì to tát, như đi chỉ để thay đổi không khí, bỏ nhà đi bụi vài ngày, có khi biền biệt tháng năm nơi bước chân chưa từng đặt đến. Sau những cuộc rong chơi là niềm thương nỗi nhớ da diết. Đi chỉ là một phương thức nhằm thay đổi bối cảnh, không gian sống chứ khó lòng mà thay đổi số phận, tâm trạng.
Đọc bài thơ “Giang hồ” của Phạm Hữu Quang người ta bắt gặp một tâm trạng rất thật, rất con người và gợi một niềm cảm xúc rưng rưng. Người đàn ông xưa nay luôn được quan niệm là “phái mạnh”, là “đấng mày râu” luôn phải nuôi chí lớn. Phải có chí làm trai đặt ở bốn phương trời. Có lẽ vì thế mà mở đầu bài thơ nhân vật trữ tình đã tự vấn chính mình: “Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ/ Chẻ củi trèo thang với giặt đồ”. Và thế là ra đi, đến: “Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi”. Cuộc sống giang hồ rày nay đây mai đó, tưởng chừng là vô lo vô nghĩ: “đâu bận lo tiền túi/ Ngày đi ta chỉ có tay không”. Khi thì “ghé nhờ cơm bạn”, khi thì “có buổi ta ngồi quán”, có khi “Giang hồ mấy bận say như chết”...Ấy thế nhưng sau tất cả những phiêu lãng giang hồ, đằng sau những câu thơ tưởng chừng kiêu bạc, ngông nghênh của người lữ khách người ta vẫn đọc ra những ngậm ngùi, xa xót khi nhận ra: “Sáng nay mới hiểu mình tóc bạc/ Chợt tiếng trẻ thưa ở bên đường”. Bài thơ có những câu thơ vô cùng thấm thía, ví như: “Giang hồ ba bữa buồn một bữa/ Thấy núi thành sông biển hóa rừng”. Những tưởng được đi là vui, được thỏa sức tung hoành ngang dọc thì còn biết gì đến nỗi buồn. Nhưng không, đi giang hồ nhiều thì hẳn càng nhớ nhiều, bởi cái gì nơi xa cũng lạ. Đi nhiều rồi cũng đến lúc phải chồn chân. Lại ao ước được trở về nơi mái nhà bình yên, bên bếp lửa gia đình. Đi nhiều, người ta mới càng nhận ra không nơi đâu hạnh phúc hơn tổ ấm gia đình trên mảnh đất quê hương thân thuộc. Cho đến nỗi chỉ cần nghe một thanh âm rất đỗi nhỏ nhoi bình dị “tiếng cơm sôi” cũng khiến cho lòng người lữ khách thảng thốt, xốn xang nỗi “nhớ nhà”.
Ngạn ngữ có câu nói đại ý như sau: Người ta có thể tách một người ra khỏi ngôi làng của họ nhưng không thể tách ngôi làng ra khỏi trái tim của một người. Đọc bài thơ “Giang hồ” của Phạm Hữu Quang ta càng thấm thía điều đó. Bài thơ hay bởi đã diễn tả rất chân thực và tinh tế cái phần tâm hồn sâu thẳm nhất của người đàn ông, bình thường bị khuất lấp đi sau cái vẻ ngang tàng mạnh mẽ của họ. Tác giả bài thơ đã đi xa nhưng những vần thơ của ông vẫn được người đời nhắc đến bởi nó đã khơi gợi được những tình cảm rất người, khơi gợi những nỗi niềm lay động trái tim.