Anh tâm sự về làng Dao của mình: Chúng tôi đi đâu cũng mang khuôn mặt của làng/Gọi sớm chiều bình yên xênh xao đầu núi/Sống lời của đá cỏ và măng vồng sau mưa/Chúng tôi đo đời mình bằng tiếng chuột rúc/Chúng tôi được dạy cách đi xa/Cách để sống giữa tiếng mặc khải đường rừng/Chảy từ ngàn năm thiên di/Trong huyết quản những đôi chân phạt lối.
Qua những cuộc thiên di, người Dao tự mình tạo lấy đường đi, khai mở những điều thiêng liêng, thâm u, tĩnh lặng của núi rừng. Yêu Dao tộc, anh luôn biết ơn người mở lối và hứa với tiền nhân: Tôi xin làm con chim nhỏ làng tôi/Cất giọng vang sâu xa rừng thẳm/Ngực nóng từng lần thơm trước gió/Mang khuôn mặt làng rải khắp muôn nơi (Khuôn mặt làng).
Một nghi lễ quan trọng với đàn ông là lễ cấp sắc, còn gọi lễ đặt tên, ban tên. Người Dao quan niệm, người đã thụ lễ mới có đủ tâm, đức để biết điều phải trái, nhận thức về nhân cách, đạo đức, trách nhiệm trước gia đình và xã hội. Bày tỏ tình yêu với mỹ tục này, nhà thơ viết: Gọi nhau về trong lễ ban tên/Người cho ta sinh thêm một lần nữa… (Cấp sắc).
Tìm hiểu quá trình hòa nhập của người Dao, ta thường nghe nói về các bức thư viết theo thể văn vần, còn gọi là “Tín ca” và “Tín ca thiên di”. Nhà thơ viết: Lũ chúng tôi dại khờ/Lũ chúng tôi hiền từ/Lấy cỏ cây làm linh vật/Thờ tổ tiên để mà nhớ/Cố thổ nằm nơi đâu… Mỗi khi hơ tay lên bếp lửa/Thấy trước mặt là cố hương.
Phải chăng, ngọn lửa tình yêu Dao tộc cháy lên trong anh, những khát khao am tường lịch sử thiên di. Kết nối các “Tín ca” ấy, tình yêu cố hương, sự tri ân tiền nhân dồn nén trong anh, bật lên những xung lực tinh thần: Dao thắt lưng hồn muôn trùng/Đi. Đi thôi. Ngựa hí rồi. (Bài ca thiên di).
Người Dao tự gọi mình là Kìm Miền, Kìm Mùn tức người rừng, là con cháu của Bản Hồ (Bàn Vương), một nhân vật huyền thoại rất thiêng liêng, qua đó họ muốn gửi gắm niềm tin, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là tiếng lòng tha thiết của nhà thơ: Bằng giọng kể từ mấy trăm năm trước/Như tự thuở Bàn Hồ cắp đầu giặc về dâng…Người rừng/Những nấm mồ tan vào bụi lau rừng nứa/Cuộc đồng sàng dị biệt của đất và đá… Trong tiềm thức của chúng tôi là những lời ca páo dung…Người rừng/Trở mình trước mê sảng hoàng hôn. (Người rừng).
Mỗi ngày lớn lên, ta mang ân huệ với mẹ cha, làng xóm, cao hơn là ông bà tổ tiên, khai sơn lập quốc. Viết cho mỗi ngày tôi lớn lên cũng là cách biểu đạt tình yêu, sự tri ân, là chiều sâu giá trị văn hóa của người con Dao tộc. Tự hào kế thừa những tinh hoa văn hóa và ý thức cội nguồn, nhà thơ gửi gắm: Tôi viết cho mỗi ngày tôi lớn lên/Trên mảnh đất này/Cằn khô gót ông bà…Tôi viết cho mỗi ngày tôi lớn lên…Ký ức là những chuyến thuyền/Vượt biển/Băng rừng…Tôi viết cho ngày tôi lớn lên/Để mình thuộc những vốn xưa còn sót… Để góp một lời thương với xót/Những phận người núi thẳm rừng thiêng. (Ngày tôi lớn lên).
Những cung bậc trong “YAO”, không thể thiếu tình yêu cha mẹ: Tôi mơ giấc trở về/Giữa làng tôi/Ôm lấy mẹ tôi và hát/Mặc ngoài trời mưa tuôn/Núi trầm buồn mây phủ/Tôi mơ hạt giống của trời/Đầy no từng giấc ngủ…Hai núi hai vai/Mây trắng huy hoàng.
Là người con bản Dao mặc áo lính, cô đúc trong anh là tình yêu Tổ quốc, làng quê, tộc người... Trái tim anh còn nóng rãy tình yêu thương, tôn kính mẹ cha. Không chỉ mơ giấc trở về… Ôm lấy mẹ tôi và hát. Ta còn thấy rõ hơn khi bài thơ vào kết: Hai núi hai vai/Mây trắng huy hoàng. (Giấc mơ).
Thơ Lý Hữu Lương giàu hình tượng, giúp ta đam mê lật mở truyền thuyết và thực tại đời sống người Dao. Để từ tình yêu Dao tộc, cho ta những khao khát khám phá tới những tộc người khác trong đại gia đình Việt. Đọc và hiểu thơ anh không dễ, bởi phong thái rắn rỏi, giàu chất liệu vùng cao, nhất là về đời sống tộc người, thổ ngữ, phong tục, sinh hoạt văn hóa và canh tác… đòi hỏi phải có sự trải nghiệm. Tập thơ “YAO” vừa ra đời đã được công chúng nhiệt tình đón nhận.