Bà Phan Thị Thu Sanh sinh năm 1922, trong một gia đình có 3 anh em tại xã Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Cha mẹ, anh em của bà đều tích cực tham gia cách mạng. Cha của bà là thầy thuốc đông y, mất năm 1946. Mẹ làm nghề mua bán cá. Anh trai bà là Phan Văn Dương, từng là Trưởng ban Quân nhu tỉnh Bà Rịa, năm 1949 bị đánh bom, mất tại khu căn cứ. Em trai bà là Phan Tòng Bá, cán bộ cứu thương xã, bị địch bắt ở khu căn cứ và bị bắn chết năm 1946 tại xã Phước Hải. Chồng bà là Nguyễn Trung Châu, từng là Trưởng phòng Cục Vật tư, Bộ Nông nghiệp, là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Trong tờ khai Thẻ cán bộ đi B, chồng bà cũng đã đi công tác B2, tham gia và phục vụ chiến đấu, giải phóng miền Nam.
Tự hào về những đóng góp của người thân cho cách mạng, bà đã sống, lao động không ngừng. Hồ sơ cán bộ đi B của bà với 112 tờ, gồm những trang lý lịch, những trang kiểm thảo và các giấy tờ cá nhân.
Năm 1945 bà tham gia cách mạng, thực hiện tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở xã Phước Hải, bà là Hội trưởng của đoàn phụ nữ xã Phước Hải, tích cực tham gia phong trào cách mạng, cũng như phong trào phụ nữ. Năm 1946, bà được bầu vào phụ nữ huyện Đất Đỏ và là Trưởng đoàn phụ nữ huyện. Năm 1947 bà đã tham gia học lớp huấn luyện về phụ nữ do tỉnh Bà Rịa tổ chức, được bầu làm Trưởng đoàn phụ nữ tỉnh Bà Rịa, đồng thời là ủy viên mặt trận Việt Minh tỉnh Bà Rịa, sau đó chuyển về Khu 9, Sở Kinh tế Nam Bộ.
Từ tháng 12/1949 đến tháng 2/1951, bà làm kế toán kiêm thủ quỹ của Sở Kinh tế Nam Bộ rồi Sở Mậu dịch Nam Bộ, phụ trách kế toán các đơn vị: Trại mộc, Hải sản, ngoại thương. Sau khi đình chiến, bà phụ trách kế toán tại Chi điếm quốc doanh gạo tại Thị trấn Cà Mau.
Trong những năm công tác ở miền Nam, bà làm việc rất tích cực, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không kêu ca, phàn nàn, không ngại khổ, ngại khó, vươn lên gánh vác công việc, đi sâu, đi sát cơ sở.
Năm 1955, thực hiện Hiệp định đình chiến, bà tập kết ra Bắc. Mặc dù sức khỏe có hạn, nhưng bà luôn phát huy tinh thần cách mạng, ý thức làm chủ, tinh thần trách nhiệm, làm đến nơi, đến chốn, chịu khó suy nghĩ, nghiên cứu, nắm chính sách, chế độ, nguyên tắc của Nhà nước và nghiệp vụ chuyên môn. Bà tiếp tục làm kế toán hàng hóa và phụ trách kế toán tài vụ ở Ban Vận động hợp tác xã mua bán Trung ương. Bà tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, học lớp kế toán Hợp tác xã mua bán Trung ương, tham gia học lớp chính trị kinh tế và kinh tế thương nghiệp năm 1961. Nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, bà được kết nạp Đảng ngày 9/4/1961.
Trong những năm 1962 đến tháng 6/1965, bà chuyển sang Cục Vật liệu kiến thiết làm tổng hợp quyết toán và phụ trách nhóm tài vụ, bà còn tham gia học và hoàn thành chương trình đại học kế toán do Bộ Tài chính tổ chức, sau hai năm, bà đã tốt nghiệp với kết quả loại khá. Ra trường, bà về nhận công tác ở đơn vị mới, là Trưởng phòng kế toán tài vụ ở xưởng Quyết Thắng, Cục Kho vận, Bộ Nội thương. Tháng 8/1968, bà tham gia học lớp lý luận chính trị ở Trường Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, bà chuyển công tác về Liên hiệp công đoàn cơ quan Trung ương, chuyên trách kế toán tập trung Ban Bảo hiểm xã hội từ tháng 4/1972, là Phó Ban Bảo hiểm xã hội kiêm kế toán trưởng, giữ chức Phó Bí thư Chi bộ của ban.
Trong suốt quá trình công tác, bà có nhiều cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng và chính quyền giao cho, từ khi tham gia cuộc đấu tranh cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, rồi kháng chiến chống Pháp và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, bà luôn có tinh thần học tập, cầu tiến bộ, đoàn kết tốt trong Đảng và quần chúng. Giữ gìn phẩm chất đạo đức người đảng viên. Bà được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huy chương Thành đồng Tổ quốc, Huy hiệu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Huy hiệu kháng chiến...
Một trong những minh chứng về những đóng góp không ngừng nghỉ của bà chính là việc bà đã gửi lại toàn bộ hồ sơ của mình, gửi lại những trách nhiệm nặng nề ở Ban Bảo hiểm xã hội thuộc Liên hiệp Công đoàn cơ quan Trung ương để thực hiện một nhiệm vụ cao cả hơn, vinh quang hơn: Ngày 26/3/1975, theo tiếng gọi của miền Nam đang trong giai đoạn ác liệt nhất, bà Sanh đã lên đường vượt Trường Sơn trở về miền Nam, lúc ấy bà đã 53 tuổi, cái tuổi gần với tuổi nghỉ hưu của cán bộ nữ ngày nay. Chỉ thế thôi cũng đủ thấy những người phụ nữ Việt Nam, dù làm gì, ở đâu, thời kỳ nào, hoàn cảnh nào cũng luôn can trường, gan góc, đảm đang, dũng cảm.