Trước đó Bộ Giao thông vận tải đã có giải trình, tiếp thu làm rõ các nhóm vấn đề về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Nêu ý kiến thảo luận, đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TP.HCM) nhắc lại 15 năm trước chủ trương xây dựng đường sắt tốc độ cao đã được thảo luận nhưng điều kiện lúc đó chưa chín muồi.
Hiện nay, đất nước đã phát triển hơn, kinh tế vĩ mô ổn định… Khi đường sắt tốc độ cao đi vào hoạt động sẽ mang lại thuận lợi cho người dân, thu hút khách du lịch, nhà đầu tư, khai thác được tiềm năng, lợi thế của các địa phương mà đường sắt tốc độ cao đi qua, đặc biệt là các tỉnh miền trung.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TPHCM).
Ông Ngân cho rằng, đây là phương tiện giao thông tốc độ cao nên yêu cầu kỹ thuật, an toàn nghiêm ngặt, không vì chi phí và nguồn thu mà bỏ qua kỹ thuật và an toàn.
Về nguồn vốn, theo đại biểu, số vốn dành cho dự án lớn nên cần tập trung huy động ở trong nước, vay ưu đãi nước ngoài, hạn chế vay ODA.
Cùng với đó là cần huy động doanh nghiệp trong nước có chuyên môn để xây dựng dự án. Cần xây dựng ngành công nghiệp, nhân lực phụ trợ đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị”, đại biểu Ngân nói.
Đại biểu đoàn TP.HCM cũng cho rằng, trong quá trình thực hiện dự án, để giảm áp lực ngân sách nhà nước, cần quan tâm đến nguồn thu từ việc đấu đấu giá đất ở gần nhà ga, vùng phụ cận, TOD.
Tránh đội vốn, bù lỗ
Tán thành với chủ trương đầu tư dự án với tinh thần “bàn làm chứ không bàn lùi”, đại biểu Tạ Văn Hạ (Đoàn Quảng Nam) nhấn mạnh, đây là xu thế phát triển đất nước, là bước chuẩn bị, đột phá chiến lược để nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển. Đồng thời đề nghị khi xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam thì cần tính toán việc khai thác các cảng hàng không, đường bộ và đường thủy không bị lãng phí.
Ông cũng nhấn mạnh cần có phương án triển khai, khai thác thực sự hiệu quả từ khâu lựa chọn công nghệ cho đến phân kỳ phù hợp. Đặc biệt, cần chú ý khâu tổ chức thực hiện để làm sao tránh đội vốn, bù lỗ sau này; không để đầu tư thì lớn mà khai thác không hiệu quả, phải bỏ tiền ra bù lỗ.
Trong khi đó, đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) nhấn mạnh đến nay dự án đã thỏa mãn cả 2 điều kiện cần và đủ. Cụ thể, tỷ lệ nợ công khá thấp 37% là dư địa tốt để huy động thêm khoảng 67 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Bên cạnh đó, dự án sẽ đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách, hàng hoá trục Bắc – Nam gia tăng, đáp ứng sự kết nối các tỉnh thành và giải quyết nút thắt logistic…
Đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) nêu ý kiến thảo luận
Mặc dù rất cần thiết và đủ khả năng để đầu tư, nhưng đây là một dự án đầu tư rất lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát triển lâu dài và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực phát triển của đất nước, do vậy cần phải được đánh giá rất kỹ, với góc nhìn đa chiều để lựa chọn được phương án phù hợp nhất.
Ông Cường đề xuất đường sắt tốc độ cao Bắc Nam phải đảm nhận chức năng vận tải lưỡng dụng cả hành khách và hàng hóa (không phải chỉ vận tải hàng hóa trong trường hợp cần thiết), vì mức độ tập trung dân số dọc theo tuyến Bắc Nam chỉ bằng 1/10 tuyến Bắc Kinh-Thượng Hải, bằng ½ tuyến Đài Bắc-Cao Hùng; nên nếu chỉ chở khách thì sẽ lãng phí khoảng 50% công suất, doanh thu chỉ chở khách sẽ không đủ bù đắp chi phí vận doanh, có nguy cơ phải bù lỗ rất lớn.
Bên cạnh đó, cần tính đến việc đầu tư dự án phải thực hiện theo phương thức chuyển giao công nghệ để chúng ta làm chủ quá trình đầu tư và phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước.
Bài học kinh nghiệm từ 2 tuyến đường sắt đô thị Tại Hà Nội và 1 tuyến Tại (Cát Linh – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội (TP. Hà Nội), Bến Thành – Suối Tiên (TP.HCM) cho thấy, nhà thầu nước ngoài thi công trọn gói, khi điều kiện không đáp ứng là nhà thầu nước ngoài dừng dự án và yêu cầu xử phạt thời gian chờ đợi. Thêm vào đó, quá trình vận hành, sửa chữa thay thế, sẽ lệ thuộc mãi mãi vào nhà cung cấp nước ngoài.
Nếu dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam lại tiếp tục đấu thầu chọn nhà cung cấp nước ngoài như đã làm với các tuyến đường sắt đô thị thì không chỉ rủi ro về thời gian chưa biết khi nào hoàn thành, vốn có thể đội lên bao nhiêu chưa biết và nguy hại hơn sẽ lệ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài.
Đại biểu Cường tin tưởng doanh nghiệp trong nước đủ năng lực để nhận chuyển giao công nghệ đường sắt và tiếp tục nghiên cứu cải tiến, phát triển cao hơn. Làm được như thế, chúng ta không chỉ có được tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam mà nước ta còn phát triển được ngành công nghiệp đường sắt của riêng mình.
Do vậy, việc chọn nhà cung cấp không cần quan tâm là nước nào, mà cần quan tâm lựa chọn công nghệ nào để có nhiều nhà cung cấp cạnh tranh sẵn sàng chuyển giao công nghệ.
Phương Vy