(QK7 Online) -
Nhớ
Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo.
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Phạm Tiến Duật
Chất lãng mạng, lạc quan của lính
Chùm thơ được giải nhất Báo “Văn Nghệ” năm 1969 đã đưa Phạm Tiến Duật trở thành nhà thơ hàng đầu của thời chống Mỹ. với “Lửa đèn”, “Tiểu đội xe không kính”, “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”, “Nhớ”… trở thành thân thuộc, gần gũi bao nhiêu năm không chỉ với Cựu chiến binh mà với tất cả người đọc.
“Cái”, “xoàng”, “mà”… đưa vào thơ lại ngay dòng đầu một bài thơ tứ tuyệt thì lạ lắm, lạ đến ngạc nhiên và vui nữa. Cuộc sống trong bài thơ “Nhớ” không phong phú, đa dạng như trong “Lửa đèn”, không bộn bề, hào sảng như trong “Tiểu đội xe không kính”… mà lắng sâu, xao động tâm trạng của một người chiến sĩ lái xe. Anh bị thương, phải nằm viện. Trong bệnh viện anh không nghĩ gì đến vết thương của mình mà lại nhớ tới những chuyến hàng, những đoàn xe, bến bãi, lưng đèo và cả ánh trăng thơ mộng. Nhiệm vụ người lính và chất lãng mạn của tâm hồn thi sĩ kết tụ và thăng hoa vào ngôn từ, nhịp điệu giản dị, tự nhiên như không hề có sự chọn lựa, trau chuốt. Người chiến sĩ lái xe bị thương. Vết thương nặng có thể nguy hiểm, phải vào viện điều trị. Nhưng với anh đó lại là “Cái vết thương xoàng” và việc vào viện là “bất đắc dĩ”: “Cái vết thương xoàng mà đưa viện”. Câu thơ như lời nói chơi, coi cái chết của mình như không. Đó là một trong những phẩm chất của người chiến sĩ trong chiến đấu. Ca dao cũng đã có câu nói đến nhớ: “Nhớ ai hết đứng lại ngồi” hoặc “Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Ở đây, người chiến sĩ bị thương phải nằm viện với nhiều bức xúc. Nằm tư thế nào cũng đắm vào miền nhớ, cũng chạm vào những rung động sâu xa trong ký ức.
Không phải chỉ nhớ một “ai” đó. Mà là tất cả: âm thanh, cảnh vật, thiên nhiên… cuộc sống ở các tuyến đường chiến tranh. Và khi ngồi dậy tưởng nỗi nhớ sẽ tan nào ngờ lại càng da diết: “Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo”. Hai chữ “nôn nao” làm cho dòng thơ bảy chữ ở cuối bài tạo nên bất ngờ, diễn tả đúng con người ở trạng thái xao động trong tình cảm khi đang mong mỏi hoặc gợi nhớ đến điều gì?. Từ này ở đầu dòng vừa chuyển tiếp rất hợp lý diễn biến tâm trạng từ ba dòng trên đồng thời giúp cho kết thúc bài thơ được mở ra nhiều chiều, thoả mãn cảm hứng thẩm mĩ của người đọc về nỗi nhớ của người chiến sĩ lái xe bị thương phải nằm viện.
Bài thơ từ lúc ra đời cho đến nay vẫn thế. Không phải 28 chữ, thất ngôn tứ tuyệt, mà là 29 chữ như chạm khắc vào thời gian để đến với chúng ta ngày hôm nay nguyên vẹn từng chữ, từng dòng: Độc đáo và vụt sáng, đầy sức lay động và ấm áp ngay cả trong những lúc cay nghiệt nhất của chiến tranh, đó là vẻ đẹp của thơ Phạm Tiến Duật. “Nhớ” là bài thơ lấp lánh vẻ đẹp đó.
Minh Nguyệt